Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2011

Chương trình phát triển vũ khí mạng tuyệt mật của Anh

Nước Anh đang bí mật phát triển một chương trình vũ khí mạng giúp các bộ trưởng nước này có khả năng tấn công chống lại mối đe dọa an ninh quốc gia từ không gian ảo. Theo tiết lộ của giới quan chức chính phủ, nước Anh cần có một số lựa chọn tấn công mới mà không chỉ lo củng cố phòng thủ cho các cơ quan chính quyền nhạy cảm nhất thường xuyên là nạn nhân của bọn tin tặc.

Tướng Nick Harvey cho biết: “Hành động trong không gian ảo là một phần trong chiến trường tương lai”, và dù tuyên bố vũ khí mạng sẽ không thay thế được vũ khí truyền thống, song ông cũng thừa nhận nó là “phần không thể thiếu trong kho vũ khí quốc gia”. Đây là thừa nhận đầu tiên của Anh về sự tồn tại của chương trình vũ khí mạng.

Trung tâm kiểm soát viễn thông Anh (GCHQ).

Trung tâm kiểm soát viễn thông Anh (GCHQ).

Về việc vũ khí này được sử dụng khi nào và sẽ trừng phạt ai, Nick Harvey chỉ tiết lộ: “Chúng tôi cần được trang bị đầy đủ mọi khả năng và đó là những gì mà chúng tôi đang cố gắng phát triển. Hoàn cảnh và cách thức mà vũ khí mạng được sử dụng cũng không khác bất kỳ thứ vũ khí nào khác”.

Mặc dù đặc điểm của loại vũ khí mạng được phát triển này còn trong vòng tuyệt mật, nhưng người ta tin rằng Anh và Trung tâm Các chiến dịch an ninh mạng ở Trung tâm Kiểm soát viễn thông (GCHQ) phụ trách nhiệm vụ. Mới đây, Bộ Quốc phòng Anh đã chỉ định tướng Jonathan Shaw lãnh đạo một đơn vị tiến hành chiến dịch mạng phòng thủ. Mặc dù tướng Shaw không có kiến thức đủ về IT (công nghệ thông tin) nhưng kinh nghiệm của một người chỉ huy trung đoàn lính dù cũng rất có ích.

Jonathan Shaw gọi không gian ảo là “xung đột không biên giới”. Mức độ nguy hiểm mà virus máy tính gây ra là vô cùng trầm trọng như trường hợp đã xảy ra vào năm ngoái với virus Stuxnet, đã đánh sập chương trình làm giàu uranium của Iran. Chính quyền Iran buộc tội người Israel và Mỹ là thủ phạm thiết kế và triển khai Stuxnet khiến cho một số thiết bị ly tâm rơi vào tình trạng mất kiểm soát. Giới chuyên gia mô tả virus Stuxnet là quá phức tạp và tiên tiến về mặt kỹ thuật đến mức chưa từng thấy trong quá khứ.

Mặc dù quan chức Chính phủ Anh phủ nhận bất cứ sự liên quan nào đến việc triển khai virus Stuxnet, nhưng sự khám phá ra nó cũng làm tăng thêm mối lo ngại về khả năng phòng thủ mạng của nước này. Chiến lược an ninh quốc gia Anh trong năm 2010 đã có một phần ưu tiên quan trọng cho an ninh mạng và dành thêm 650 triệu bảng Anh cho Chương trình An ninh và phòng thủ chiến lược (SDSR).

Theo Nick Harvey, các mạng kỹ thuật số hiện nay là “trái tim của mọi hệ thống giao thông, năng lượng và truyền thông”: “Hậu quả của cuộc tấn công được lên kế hoạch cẩn thận và triển khai tốt nhằm vào hạ tầng cơ sở kỹ thuật số của chúng ta là thảm họa thật sự… Vũ khí hạt nhân hay sinh học đòi hỏi kỹ thuật cao. Nhưng với không gian ảo thì bất cứ ai, từ quốc gia đến một sinh viên bình thường, cũng có thể bấm phím để thực hiện cuộc tấn công”. Mặc dù không cho biết cụ thể mối đe dọa trong tương lai sẽ đến từ đâu, song Harvey cũng cảnh báo rằng Trung Quốc hiện đang nỗ lực phát triển “các công nghệ và quân sự hiện đại”.

Trong một hội nghị về an ninh ở Munich tháng 2 năm nay, Ngoại trưởng William Hague cho biết, Bộ Ngoại giao Anh đã chống lại một cuộc tấn công mạng vào tháng trước đó từ “một cơ quan tình báo của quốc gia thù địch”. Tuy nhiên, một số nguồn lúc đó tin rằng cuộc tấn công xuất phát từ cộng đồng tình báo Trung Quốc.

Trong diễn văn ở Munich, Ngoại trưởng William Hague kêu gọi cần có một hiệp ước với “những quy định chấp nhận được” về cách hành xử của các quốc gia trong lĩnh vực không gian ảo. Mới đây, tướng Graeme Lamb, cựu Giám đốc Các lực lượng đặc biệt Anh, khẳng định, SDSR vẫn chưa có đủ hành động cần thiết đối với những điểm yếu tiềm tàng của nước Anh và cần có sự triệt để hơn.

Theo truyền thống, Bộ Ngoại giao Anh đã giữ vai trò lãnh đạo về an ninh mạng cùng với Neil Thompson, một trong những chuyên gia tình báo hàng đầu nước này và hiện quản lý Cơ quan An ninh mạng và Bảo hiểm thông tin. Hàng ngày, Neil Thompson đều tiếp xúc với Howard Schmidt, chuyên gia an ninh mạng của Mỹ được Tổng thống Mỹ Barack Obama chỉ định sau khi ông tuyên bố không gian ảo là ưu tiên chiến lược của Nhà Trắng.

Khó khăn cho GCHQ cũng như một số cơ quan quan tâm đến an ninh mạng là phạm vi của nó rất rộng, bao gồm từ tội phạm lừa đảo cho đến khủng bố. Iain Lobban, Giám đốc GCHQ, cho biết, hơn 20.000 e-mail hiểm độc được tìm thấy trong các mạng của chính quyền Anh mỗi tháng, và 1.000 trong số chúng nhằm vào mục tiêu đặc biệt.

500 chuyên gia làm việc trong tổng hành dinh của GCHQ thường xuyên cố vấn cho Chính phủ Anh về những đe dọa và biện pháp đối với tấn công mạng.

Các chuyên gia ở GCHQ, Bộ Quốc phòng Anh cũng như số chuyên gia phân tích độc lập đều đồng ý rằng virus Stuxnet cực kỳ phức tạp, có lẽ được một nhóm người nào đó phải mất nhiều năm để phát triển và virus đã mở mắt cho mỗi chính quyền về khả năng phá hoại của nó ghê gớm đến chừng nào. Bởi vì Stuxnet được thiết kế với mục đích rõ ràng là phá vỡ hệ thống kiểm soát 9.000 thiết bị ly tâm của Iran được sử dụng để làm giàu uranium.

Ilias Chantzos, Giám đốc Symantec, một trong những công ty an ninh mạng hàng đầu thế giới, tin rằng Stuxnet buộc mọi chính quyền trên thế giới phải đánh giá lại “cách mà họ hiểu về những mối đe dọa đối với cơ sở hạ tầng nhạy cảm và an ninh quốc gia”

PV

Các kỹ thuật đã làm thay đổi phương thức tiến hành chiến tranh

Kỹ thuật tác chiến điện tử

Kỹ thuật tác chiến điện tử là kỹ thuật nghiên cứu sử dụng trang bị hoặc khí tài điện tử tiến hành đấu tranh điện từ. Nó bao gồm các lĩnh vực đối kháng ra-đa, đối kháng thông tin, đối kháng C3I, phân biệt địch ta và đối kháng dẫn đường. Sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật điện tử, khiến cho tác chiến điện tử từ bảo đảm tác chiến vọt lên thành hình thức tác chiến quan trọng, và đang mở ra cánh cửa lớn của chiến tranh thông tin.

Ngày 5-6-1967, I-xra-en tập kích chớp nhoáng vào bán đảo Si-nai, mở màn cuộc chiến tranh Trung Đông lần thứ 3, một cuộc chiến tranh mà người Ai-cập không muốn nhắc đến, trong thời gian 6 ngày, toàn bộ chủ lực không quân lục quân Ai-cập bị tiêu diệt, duy có hải quân Ai Cập đã giáng một đòn bất ngờ khiến cho người I-xra-en kinh hãi. Trong chiến tranh Ai-cập đã bắn 6 quả đạn tên lửa hạm đối hạm SS-N-2 do Liên Xô chế tạo vào hạm tàu của I-xra-en ở ngoài cảng Xa-ít, toàn bộ đều trúng mục tiêu, Đó là lần đầu tiên sử dụng tên lửa hạm đối hạm trong lịch sử chiến đấu trên biển. Nhưng trong cuộc chiến tranh Trung Đông lần thứ tư 6 năm sau đó, quân đội Ai-cập đã phóng 50 quả đạn tên lửa SS-N-2 , nhưng chẳng trúng quả nào, nguyên nhân là quân I-xra-en đã gây nhiễu điện tử mạnh, khiến cho tên lửa SS-N-2 như bị bịt mất mắt, rơi hết xuống biển. Quân I-xra-en còn sử dụng kỹ thuật tác chiến điện tử, gây nhiễu điện tử mạnh đối với trận địa tên lửa "SAM" của quân đội Si-ri ở thung lũng Bê-ca, phá huỷ toàn bộ trận địa tên lửa SAM mà Si-ri khổ tâm xây dựng bấy lâu. Các học giả phương Tây cho rằng, trận chiến ở thung lũng Bê-ca đã mở ra tiền lệ cho chiến tranh điện tử.

Cuộc chiến tranh vùng Vịnh nổ ra năm 1991 đã để lại trong trí nhớ mọi người những cảnh tượng chiến đấu máu lửa với "Bão táp Sa mạc", "Tiếng sấm sa mạc", "Thanh kiếm sa mạc", nhưng những cuộc đại chiến điện tử "Snow" do 2 bên triển khai xoay quanh cuộc đấu tranh giành quyền khống chế điện tử lại ít người biết. Đó thực là một cuộc tác chiến điện tử, do lực lượng đa quốc gia tiến hành nhằm xé toang hệ thống phòng thủ mà I-rắc tự cho là vững như tường đồng. Ngay trước khi xảy ra chiến tranh, lực lượng đa quốc gia đã tiến hành trinh sát và gây nhiễu toàn diện các mục tiêu chiến lược của I-rắc trong vùng đất của I-rắc và Cô-oet, toàn bộ khu vực vùng Vịnh không lúc nào là không đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của mạng lưới tình báo điện tử chiến lược Mỹ, thậm chí mỗi hành động của Sát-đam đều bị hệ thống trinh sát điện tử của quân Mỹ theo dõi. Sau khi bắt đầu chiến tranh, quân Mỹ xuất kích nhiều loại máy bay gây nhiễu điện tử để gây nhiễu chế áp mạnh thông tin của quân đội I-rắc. Máy bay tác chiến điện tử EA-6B và máy bay đối kháng điện tử EC-130 gây nhiễu chi viện tầm xa ngoài lưới lửa phòng không của I-rắc, làm tê liệt hoàn toàn hệ thống C3I của quân đội I-rắc, toàn bộ mạng thông tin và mạng ra-đa phòng không bị mù. Do bị gây nhiễu điện tử mạnh, liên lạc vô tuyến giữa Bộ tư lệnh quân đội I-rắc với bộ đội bị gián đoạn, thậm chí nghe đài phát thanh cũng chỉ thấy tiếng sóng nhiễu.

Tác chiến điện tử là thủ đoạn để giành quyền sử dụng và khống chế phổ tần điện tử của 2 bên giao chiến. Có người nói, thế kỷ 19 là thế kỷ của tác chiến trên biển, thế kỷ 20 là thế kỷ của tác chiến trên không, thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của tác chiến điện tử. Chiến trường điện từ đã trở thành chiến trường của chiếu thứ 5 tiếp sau chiến trường của 4 chiếu trên đất, trên biển, trên không, trên vũ trụ. Thực tiễn của mấy cuộc chiến tranh cục bộ sau đại chiến thế giới đã suy diễn ra một nguyên lý chung (công lý): năng lực tác chiến điện tử mạnh hay yếu đã trở thành nhân tố quan trọng quyết định thắng bại của chiến tranh.

Trong thời gian đại chiến thế giới lần thứ nhất, hai bên giao chiến đã sử dụng thiết bị thông tin vô tuyến để trinh sát thông tin của đối phương, gây nhiễu liên lạc thông tin của đối phương. Trong đại chiến thế giới lần thứ hai, ra-đa mới phát minh được ứng dụng vào tác chiến phòng không, do ra-đa liên hệ chặt chẽ với hành động tác chiến và hệ thống vũ khí, gây uy hiếp trực tiếp đến đối phương, nên đã nhanh chóng thúc đẩy sự phát triển của kỹ thuật trinh sát, gây nhiễu ra-đa. Trong thời gian đại chiến, phát minh quan trọng nhất của kỹ thuật tác chiến điện tử là: gây nhiễu không có nguồn bằng các dải kim loại mỏng theo nguyên lý các sợi kim loại phản xạ sóng điện từ; kỹ thuật gây nhiễu có nguồn bằng cách phát xạ tạp âm xạ tần để chế áp ra-đa; kỹ thuật trinh sát và báo động đối với ra-đa.

Những năm 50 đến 70 của thế kỷ 20, kỹ thuật tên lửa, hàng không, hàng không vũ trụ phát triển nhanh chóng, sự xuất hiện vũ khí điều khiển chính xác cùng các loại ra-đa và thiết bị thông tin đồng bộ với chúng, hình thành mối uy hiếp mới đối với máy bay, hạm tàu và mục tiêu quan trọng, thúc đẩy sự phát triển kỹ thuật tác chiến điện tử. Thời gian sử dụng kỹ thuật trữ tần và ống dẫn sóng dải rộng, phát triển các loại kỹ thuật gây nhiễu kiểu đánh lừa đối với ra-đa ngắm pháo và ra-đa điều khiển tên lửa; nghiên cứu chế tạo ra tàu trinh sát điện tử chuyên dụng, máy bay trinh sát điện tử, vệ tinh trinh sát điện tử và máy bay gây nhiễu điện tử; nghiên cứu chế tạo ra khoang treo đối kháng điện tử mắc bên ngoài máy bay để nâng cao khả năng đối kháng điện tử của máy bay tác chiến hiện đại; phát triển loại máy bay gây nhiễu kép với 2 dạng gây nhiễu chế áp và đánh lừa; cùng với việc ứng dụng rộng rãi kỹ thuật hồng ngoại và la-de trong quân sự, đã sinh ra kỹ thuật đối kháng quang điện, và nghiên cứu chế tạo ra các thiết bị đối kháng quang điện như máy báo động hồng ngoại, máy báo động la-de, máy gây nhiễu hồng ngoại và đạn nhử mồi hồng ngoại. Tác chiến điện tử là một thủ đoạn tác chiến cả công lẫn phòng bắt đầu tỏ rõ uy lực trong chiến tranh hiện đại.

Từ những năm 80 đến nay, việc chỉ huy, kiểm soát, thông tin quân sự và sử dụng trang bị vũ khí kỹ thuật cao càng dựa vào kỹ thuật điện tử. Cùng với việc ứng dụng rộng rãi kỹ thuật vi điện tử, kỹ thuật máy tính và kỹ thuật số hoá, kỹ thuật các chiến điện tử cũng có những tiến bộ rất lớn. Đối kháng thông tin sau một thời gian phát triển chậm, cũng đã có bước phát triển nhanh chóng. Kỹ thuật tác chiến điện tử trên nhiều phương diện như thích ứng với môi trường tín hiệu điện tử dầy đặc phức tạp luôn thay đổi, mở rộng phổ tần, tăng cường khả năng phân biệt chọn lọc nhận biết tín hiệu, tăng thêm nhiều kiểu gây nhiễu, nâng cao công suất gây nhiễu, rút ngắn thời gian tác động của hệ thống và khả năng tổng hợp nhất thể hoá, trí thông minh nhân tạo, tự thích ứng, khả năng gây nhiễu đối với nhiều mục tiêu và thiết bị điện tử thể chế mới, nên đã phát triển đến một giai đoạn mới chưa từng có. Như vậy trong hành động tác chiến của hai bên, có thể chuyển ngay những tình báo trinh sát được cho thiết bị gây nhiễu điện tử và vũ khí chống bức xạ, làm cho tiến công điện tử được thực hiện đồng thời và liên tục, nâng cao được hiệu quả và giá trị tác chiến của chiến tranh điện tử.

Sự phát triển của kỹ thuật trang bị tác chiến điện tử thế hệ mới, tạo ra những đổi thay có tính thời đại đối với vũ khí trang bị. Sự phát triển máy gây nhiễu la-de công suất lớn sẽ trở thành vũ khí la-de. Hệ thống gây nhiễu la-de công suất nhỏ có thể gây nhiễu cho các thiết bị quang điện. Sự phát triển các trang bị phát xạ vi sóng công suất lớn sẽ thành vũ khí vi sóng, không những có thể gây nhiễu phá hoại thiết bị điện tử, mà có thể dùng làm vũ khí huỷ diệt phá hoại mục tiêu.

Tác chiến điện tử trong tương lai sẽ mở ra một chiến trường phi tuyến tính, toàn phương vị, nhiều tầng lớp, tung thâm sâu, phổ tần lớn, dải tần rộng.

Kỹ thuật vi điện tử

Vi điện tử là kỹ thuật vi hình hoá thu nhỏ kích thước các linh kiện điện tử và thiết bị điện tử mà chủ yếu là kỹ thuật mạch điện IC. Trong các vũ khí trang bị kỹ thuật cao, chi phí cho các trang bị vi điện tử đã chiếm hơn nửa giá thành của vũ khí.

Năm 1991, cuộc chiến tranh vùng Vịnh vừa mới kết thúc, lời khẳng định của Nhật Bản làm chú Sam toát mồ hôi: Chiến tranh vùng Vịnh thức tế là do người Nhật đánh thắng! Lý do của họ là: thắng lợi của chiến tranh vùng Vịnh hoàn toàn dựa vào công kích "phẫu thuật", mà công kích "phẫu thuật" lại phải dựa vào kỹ thuật điện tử hiện đại, vũ khí kỹ thuật cao của quân đội Mỹ phải dựa vào kỹ thuật điện tử hiện đại, vũ khí kỹ thuật cao của quân đội Mỹ không thể thiếu các linh kiện bán dẫn mà 80% là do Nhật sản xuất. "Phiến Silic" của người Nhật bốn lạng nặng bằng ngàn cân lần đầu tiên đã đánh bại "gang thép".

Năm 1906, nhà vật lý Mỹ Đơ-phrét-xtơ nghiên cứu chế tạo thành công đèn điện tử 3 cực đầu tiên trên thế giới, dùng đèn điện tử để khuếch đại và kiểm soát tín hiệu điện tử, thực hiện một bước đột phá quan trọng đầu tiên của kỹ thuật điện tử. Năm 1947, người Mỹ Sô-cơ-rê, Ba-đin và Pra-ta-in cùng nhau phát minh ra bóng bán dẫn. Bóng bán dẫn hoàn toàn thay thế cho đèn điện tử chân không.

Năm 1959, Giắc Kin-bi, Rô-bớt Nốt-xư (về sau là một trong những người sáng lập ra công ty Intel) đã phát minh ra mạch điện tập thành
IC, mang lại cho công nghiệp điện tử, nhất là công nghiệp máy tính một sự đột biến cực lớn, nó làm cho phát minh máy tính cá nhân trở thành hiện thực, đó là bước đột phá to lớn thứ 3 trong lĩnh vực điện tử thế kỷ 20 của loài người. Năm 1962 chỉ chế tạo được mạch điện IC quy mô nhỏ gồm 12 nguyên linh kiện; năm 1966 đã phát triển thành mạch IC quy mô vừa với độ tập trung 100-1000 nguyên linh kiện; năm 1967-1973 nghiên cứu chế tạo được mạch IC quy mô lớn từ 1000 đến 100.000 nguyên linh kiện; năm 1977 nghiên cứu chế tạo được mạch IC quy mô siêu lớn, tập trung đến 15 vạn nguyên linh kiện trên một tinh thể Silic 30mm2. Đó là bước đột phá lớn thứ 4 của kỹ thuật điện tử, từ đó thực sự đã bước bào thời đại vi điện tử.

Các lĩnh vực mà kỹ thuật vi điện tử có dính dáng đến là kỹ thuật thiết kế phụ trợ cho máy tính và đo kiểm bổ trợ máy tính, kỹ thuật chế tạo mô-đun, kỹ thuật gia công vật liệu, kỹ thuật về độ tin cậy, kỹ thuật điều chế Simcard, kỹ thuật bao gói, kỹ thuật gia cố bức xạ. Kỹ thuật điện tử là cối lõi và nền tảng của kỹ thuật quân sự hiện đại, được sử dụng vào các loại thiết bị quân dụng như ra-đa, máy tính, thiết bị thông tin, thiết bị dẫn đường, hệ thống điều khiển hoả lực, thiết bị điều khiển và thiết bị đối kháng điện tử. Nếu không có trụ cột là mạch IC có độ tin cậy cao thì kế hoạch "Apôlô" lên mặt trăng là không thể thực hiện được. Trong các hệ thống điện tử và vũ khí mới như tên lửa đường đạn, thiết bị điện tử trên máy bay mà Bộ Quốc phòng Mỹ đang nghiên cứu chế tạo, có đến gần 80% mạch điện bộ phận phi lưu trữ sử dụng mạch iC chuyên dụng. Máy bay F-111 của Mỹ sau khi sử dụng mạch điện IC siêu cao tốc, thời gian gián cánh hỏng hóc bình quân là 40 giờ đã nâng lên khoảng 5000 giờ, số nguyên kiện từ 224 cái, giảm còn 60 cái. Tên lửa "Patriot" sau khi sử dụng mạch điện IC siêu cao tốc, các mô-đun điện tử từ 200 cái, giảm còn 13 cái, mà có thể đồng thời theo dõi tới 100 mục tiêu, còn có thể phân loại mục tiêu và đồng thời điều khiển 8 tên lửa công kích vào 8 mục tiêu. Ngoài ra hệ thống giám sát không gian, bộ phận thám sát và máy tính của tên lửa động năng đánh chặn trong "Chương trình phòng thủ chiến lược" (SDI, tức kế hoạch chiến tranh giữa các vì sao) của Mỹ cũng đều sử dụng mạch điện IC siêu cao tốc và mạch điện IC đơn phiến sóng milimét, vi sóng.

Tấm silic bé nhỏ như một nhà ảo thuật thần kỳ, sau khi "biến đá thành vàng", đã chắp thêm cánh hiện đại cho vũ khí trang bị, đẩy nhanh nhịp độ số hoá, đa năng hoá, cao tốc hoá và tự động hoá cho trang bị điện tử quân dụng. Kỹ thuật vi điện tử đã trở thành kỹ thuật cơ sở và kỹ thuật chủ đạo để phát triển vũ khí trang bị hiện đại và nhất là vũ khí trang bị kỹ thuật cao.

Kỹ thuật điều khiển chính xác

Kỹ thuật điều khiển chính xác là kỹ thuật dùng để điều khiển vũ khí một cách chính xác. Kỹ thuật điều khiển chính xác được dùng nhiều hiện này có: hệ thống điều khiển có dây, hệ thống điều khiển bằng ra đa vi sóng, hệ thống điều khiển truyền hình, hệ thống điều khiển hồng ngoại và hệ thống điều khiển la-de.

Phương pháp điều khiển vũ khí điều khiển chính xác được thực hiện bởi khí tài trinh sát và hệ thống kiểm soát tự động. Nguyên lý cơ bản của nó là lợi dụng các hiện tượng vật lý của mục tiêu, nắm bắt đặc trưng và thông tin cung cấp vị trí của mục tiêu, sử dụng khí tài thám sát và sen-sơ nắm bắt những đặc trưng và thông tin đó của mục tiêu, tách mục tiêu ra khỏi bối cảnh xung quanh, để phát hiện và nhận biết mục tiêu, định vị chính xác vị trí của mục tiêu. Sau đó chuyển mục tiêu và những thông tin nắm được sang trung tâm xử lý thông tin,cuối cùng thông qua máy tính điện tử chuyển chỉ lệnh tiêu diệt mục tiêu đến vũ khí tác chiến. Chiến tranh vùng Vịnh đã mở đầu cho chiến tranh kỹ thuật cao tương lai. Trong chiến tranh, bộ đội đa quốc gia đã sử dụng 82 loại vũ khí điều khiển dẫn chính xác thuộc 13 chủng loại, ném 740 tấn bom điều khiển, tất cả 15.500 quả, chiếm 8,36% lượng bom đạn chung. Bom đạn điều khiển chính xác đã phá huỷ 75 hăng-ga máy bay được gia cố của I-rắc, chiếm 63% tổng số hăng-ga máy bay; trong 24 ngày tập kích đường không, vũ khí điều khiển chính xác đã phá huỷ 650 xe tăng I-rắc, chiếm 86% tổng số xe bị phá huỷ. Tác chiến liên hợp không đối đất chống thiết giáp và công kích tung thâm với tập kích đường không chiến lược lấy vũ khí làm thủ đoạn chế áp sát thương chủ yếu, là 2 yếu tố trụ cột lớn để bộ đội đa quốc gia nhanh chóng giành thắng lợi. Trong chiến tranh Cô-xô-vô nổ ra cách đây không lâu, khối NATO đứng đầu là Mỹ lại diễn trò cũ, trong hành động tập kích đường không 78 ngày đêm, dựa vào ưu thế to lớn trên không và trang bị tác chiến điện tử, đã sử dụng rất nhiều vũ khí điều khiển chính xác, công kích chính xác có tính chất huỷ diệt hầu như vào tất cả các mục tiêu chiến lược của liên bang Nam Tư, trên 90% mục tiêu chiến lược điểm đã bị phá huỷ.

Thuật ngữ điều khiển chính xác được ra đời vào giữa những năm 70. Năm 1972, trong chiến tranh Việt Nam quân đội Mỹ đã sử dụng rất nhiều bom điều khiển bằng la-de và truyền hình, phá huỷ khoảng 80% mục tiêu bị công kích, tỉ lệ hiệu năng tác chiến cao gấp trăm lần vũ khí không có điều khiển. Trong chiến tranh Trung Đông lần thứ tư, tháng 10 năm 1973, Ai-cập sử dụng tên lửa chống tăng "AT-3" điều khiển bằng dây và tên lửa đất đối không "SA-6" điều khiển bằng ra-đa do Liên Xô chế tạo, I-xra-en sử dụng tên lửa chống tăng kiều "TOW" điều khiển bằng dây và tên lửa không đối đất "Maverick" điều khiển bằng truyền hình của Mỹ chế tạo, đều giành được chiến tích không nhỏ. Kỹ thuật điều khiển chính xác được đưa vào ứng dụng trong chiến tranh, làm tăng xác suất trúng mục tiêu từ dưới 30% trước đây, lên trên 50%, vòng tròn sai số đối với mục tiêu điểm là từ 0,5-1,5m, đối với mục tiêu diện là trong vòng 3m.

Sau đại chiến thế giới, kỹ thuật điều khiển chính xác được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực quân sự, trực tiếp kích thích sự phát triển của tên lửa, làm cho tên lửa trở thành binh khí chủ chiến của chiến tranh kỹ thuật cao hiện đại. Sau đại chiến thế giới lần thứ hai, 2 nước Mỹ và Liên Xô trên cơ sở của tên lửa hành trình V-1 và tên lửa đường đạn V-2 của Đức, bắt đầu phát triển tên lửa hành trình và tên lửa đường đạn tầm trung, Tiếp sau đó tháng 11.1958 tên lửa đường đạn vượt đại châu của Mỹ cũng phóng thành công. Sau những năm 60 do có sự phát triển của kỹ thuật điện tử, kỹ thuật điều khiển và kỹ thuật động cơ phản lực cánh gió tuốc-bin cỡ nhỏ, nên tên lửa hành trình lại được coi trọng. Năm 1982 trong cuộc chiến tranh ở quần đảo Malvinas giữa Anh và Ac-hen-ti-na, máy bay chiến đấu "Siêu quân kỳ" của Ac-hen-ti-na đã phóng tên lửa không đối hạm từ ngoài 30 km, bắn chìm hạm khu trục "Sê-phen-đơ" của Anh, làm cả thế giới kinh ngạc. Theo thống kê của những tư liệu có liên quan, trước đây bình quân phải sử dụng 250 viên đạn pháo 155 ly không có điều khiển, mới bắn huỷ được một xe tăng, bây giờ đạn pháo sử dụng kỹ thuật điều khiển chính xác chỉ cần 1-2 phát, hiệu suất được nâng lên 125-250 lần. Giá một quả tên lửa chống tăng "TOW" tuy tới 1 vạn đôla, nhưng dùng nó để bắn huỷ một xe tăng kiểu M-1 giá tới 244 vạn đôla, tỷ giá của 2 bên là 1: 244. Nếu sử dụng đạn thông thường không có điều khiển để bắn huỷ một xe tăng M-1, cần khoảng 250 phát đạn, mỗi phát đạn tính giá 150 đô-la, cũng phải mất 3,75 vạn đô-la.

Giữa những năm 50 của thế kỷ 20, hai nước Mỹ và Liên Xô bắt đầu nghiên cứu vấn đề lấy tên lửa chống tên lửa. Sau những năm 70, có sự tiến bộ của kỹ thuật tìm mục tiêu, kỹ thuật thám sát, kỹ thuật máy tính và kỹ thuật định hướng năng lượng, tạo điều kiện để phát triển hệ thống chống tên lửa có hiệu quả. Hai nước Mỹ và Liên Xô triển khai nghiên cứu hệ thống phòng thủ tên lửa đường đạn xuyên lục địa bằng thủ đoạn đánh chặn của vũ khí động năng và vũ khí năng lượng định hướng.

Những năm 80, Mỹ đưa ra "Chương trình phòng thủ chiến lược" (SDI), nghiên cứu kỹ thuật đánh chặn nhiều tầng lớp đối với tên lửa đường đạn bắn tới và khí tài bay khi quay trở về tầng không khí. Gần đây Mỹ lại đưa ra chương trình phòng thủ tên lửa chiến trường (TMD) và phòng thủ tên lửa quốc gia (NMD).

Xu thế phát triển chung hiện nay của kỹ thuật điều khiển chính xác là: chú trọng phát triển kỹ thuật sóng cm, tia hồng ngoại sóng dài và kỹ thuật điều khiển nhiều mô-đun; nâng cao khả năng nhận biết mục tiêu và khả năng tự thích ứng theo dõi và chống nhiễu trong hoàn cảnh chiến trường phức tạp; phát triển kỹ thuật thám sát mới, tăng cự ly tác dụng, để vũ khí có thể công kích mục tiêu từ ngoài khu vực phòng thủ; mô-đun hoá, đa dạng hoá đầu dẫn, thực hiện một quả đạn có nhiều đầu nổ, thoả mãn các yêu cầu của tác chiến.

Kỹ thuật máy tính

Máy tính quân dụng là máy tính điện tử ứng dụng trong lĩnh vực quân sự. Quá trình nghiên cứu, định hình, sản xuất máy bay ném bom tàng hình B-2 của Mỹ có trên 90% công việc được hoàn thành trực tiếp hoặc bổ trợ trên máy tính.

Phát minh ra máy tính điện tử là một trong những thành quả khoa học rực rỡ nhất của thế kỷ 20. Việc phát minh ra máy tính làm cho loài người tìm được "chìa khoá" bước vào thời đại thông tin. Tiếp theo năng lượng hoá học, năng lượng vật lý, loài người lại tìm được năng lượng thông tin.

Trong đại chiến thế giới lần thứ hai, quân đội Mỹ bắt đầu nghiên cứu chế tạo máy tính điện tử. Năm 1946, chiếc máy tính điện tử đầu tiên (ENIAC) do 2 kỹ sư Mỹ của trường đại học Pen-xin-va-ni-a "lắp ráp" ra đời. Lúc đó, "con vật khổng lồ" này có công năng chưa bằng chiếc máy vi tính dùng để học tập ngày nay, nhưng lại dùng tới 17.468 chiếc đèn chân không, 800 km dây dẫn, nặng tới 30 tấn, cao 5,5m, dài 24 m, chiếm diện tích 140m2.

Sau đại chiến thế giới lần thứ hai, kỹ thuật máy tính có bước phát triển nhảy vọt, khiến nó trở thành kỹ thuật mang tính thế giới, ứng dụng trong lĩnh vực quân sự có dính dáng đến nhiều mặt như tính toán khoa học, mô phỏng hệ thống vũ khí, kiểm soát tự động, chỉ huy tự động và quản lý đảm bảo hậu cần. Trình độ máy tính và quy mô sản nghiệp đã trở thành tiêu chí quan trọng để đánh giá thực lực kinh tế, thực lực quân sự, thực lực khoa học kỹ thuật quân sự của một quốc gia.

Kỹ thuật máy tính được ứng dụng sâu rộng trong lĩnh vực quân sự, làm cho hệ thống quân sự phát triển theo hướng tính năng cao, chất lượng cao, tốc độ cao, đa năng và trí năng hoá. Phạm vi tác dụng, độ phản ứng nhanh nhậy, độ chính xác, sức sát thương phá hoại, khả năng tự bảo vệ của vũ khí trang bị kỹ thuật cao đều có quan hệ cực kỳ chặt chẽ với máy tính. Đồng thời kỹ thuật máy tính đã trở thành thủ đoạn tất yếu không thể thiếu để phát triển hơn nữa kỹ thuật quân sự. Nó rút ngắn chu kỳ nghiên cứu vũ khí trang bị, tiết kiệm kinh phí nghiên cứu chế tạo, tăng nhanh chu kỳ nghiên cứu chế tạo vũ khí trang bị hiện đại. Nếu đầu thế kỷ 20 chu kỳ nghiên cứu vũ khí trang bị cùng một họ phải mất 60 năm, thì đến nay tốc độ đổi mới vũ khí trang bị cùng một họ đã rút xuống còn 1 năm, thậm chí ngắn hơn nữa.

Trong chiến tranh vùng Vịnh, mỗi ngày quân Mỹ xuất kích 2000-3000 chiếc máy bay tập kích đường không, việc chỉ huy kiểm soát tác chiến, độ trúng đích chính xác của tên lửa hành trình "Tô-ma-hốc", tên lửa "SLAM" tới 90-100%, đều có quan hệ bản chất với việc sử dụng kỹ thuật máy tính có tính năng cao.

Hiện nay nhiều nước đua nhau phát triển sử dụng hệ thống và mạng máy tính, kỹ thuật xử lý thông tin với phương tiện mang máy tính tính năng cao, kết cấu hệ thống máy tính song hành, máy tính kiểu kết nối, và đẩy nhanh sự phát triển kỹ thuật trí năng nhân tạo. Những kỹ thuật đó một mặt thúc đẩy sự tiến bộ của vũ khí trang bị, hệ thống vũ khí trang bị phát triển theo hướng trí năng hoá và tự động hoá toàn diện. Mặt khác sẽ thay đổi triệt để hệ thống C3I truyền thống của quân đội và bộ mặt các ngành nghiệp vụ huấn luyện, quản lý, bảo đảm hậu cần. Đồng thời tính chất quan trọng về mặt quân sự của kỹ thuật đa phương tiện (Multi-media), kỹ thuật mô phỏng của máy tính ngày càng nổi bật. Người máy thông minh quân dụng sẽ có thể mô phỏng được một số công năng của người, có thể thay thế con người làm một số nghiệm vụ quân sự trong hoàn cảnh phức tạp, ác liệt, nguy hiểm.

Sắp bước sang thế kỷ 21, thể tích của máy tính sẽ càng nhỏ, tốc độ diễn toán sẽ ngày càng nhanh, công năng ngày càng nhiều. Chiếc máy tính NIAC mỗi giây làm được 5.000 phép tính, còn tốc độ tính toán của máy tính cỡ lớn hiện nay có thể đạt tới ngàn tỷ phép tính trong một giây. Theo những tài liệu có liên quan, Mỹ đã nghiên cứu chế tạo được một loại máy siêu vi tính, giá thành rất rẻ, đặt tên là IPIC, có kích thước chỉ bằng viên thuốc Aspirin, bố trí bộ phận xử lý trung tâm 4 MH và bộ nhớ 32 KB, có công năng đơn giản, giá thành chế tạo chưa đến 1 đôla. Hiện nay tốc độ của bộ phận vi xử lý máy tính, cứ 5 năm lại nâng cao gấp 10 lần. Sang thế kỷ tới có thể kỹ thuật vi xử lý kết hợp với kỹ thuật đa xử lý sẽ thay đổi các máy tính cỡ nhỏ, cỡ lớn và cực lớn, bao trùm lên các máy tính để bàn, máy tính xách tay, máy tính kiểu sổ tay. Dựa vào đó, quân đội Mỹ đã nghiên cứu thiết kế trang bị thông tin cá nhân số hoá tập hợp cả các tính năng baó động chiến trường, quét hình nhìn đêm, định vị toàn cầu, thông tin chỉ huy. Kỹ thuật na-nô mới bắt đầu từ những năm 90 hướng tới thế kỷ 21, như vật liệu học na-nô, sinh học na-nô, điện tử học na-nô và cơ khí học na-nô được phát triển đưa vào ứng dụng, có khả năng sẽ dấy lên một cơn bão táp có tính cách mạng mới trong lĩnh vực kỹ thuật máy tính.

Các học giả có uy tín cho rằng: Bước vào thế kỷ 21, máy tính sẽ được ứng dụng trong khắp các lĩnh vực quân sự, lớn như mạng C4I chiến lược, nhỏ như trang bị dụng cụ cá nhân, đâu đâu cũng thấy bóng dáng của máy tính. Máy tính mang sức sống mãnh liệt vào bộ máy quân sự, và tự nó cũng trở thành chiến trường và vũ khí tác chiến quan trọng, trong lịch sử chiến tranh sẽ ra đời một binh chủng mới, binh chủng máy tính. Binh chủng máy tính sử dụng máy tính và những tri thức tương ứng làm vũ khí, nhiệm vụ chủ yếu là công kích hệ thống máy tính của địch, bảo vệ hệ thống máy tính của ta. Thủ đoạn tác chiến chủ yếu là: Thông qua thiết kế phần mềm, sản xuất vi-rút máy tính, công kích vào mạng máy tính của địch, đánh cắp tài liệu bí mật, gây rối hệ thống; ngăn chặn sự phá hoại bởi vi-rút máy tính của địch và sự truy nhập mạng của địch, sửa chữa phần cứng, phần mềm bị địch phá hoại. Cùng với sự phát triển của kỹ thuật mạng xây dựng trên kỹ thuật máy tính, phạm vi của chiến tranh tương lai ngày càng rộng lớn, giới hạn của con người tham chiến càng mờ nhạt, "cuộc chiến tranh không khói súng" sẽ lại diễn ra với hàm ý chiến tranh cổ điển.

Kỹ thuật C3I

Thế kỷ 19, người Mỹ S.F.B Moóc-xơ A.G.Ben, người Nga A.S.Pô-pốp và người Italia G. Macôni lần lượt phát minh ra điện báo hữu tuyến, điện thoại và điện báo vô tuyến, thực hiện truyền dẫn thông tin nhanh cự ly xa, dẫn tới cuộc cách mạng truyền tin. Những thành tựu đó được nhanh chóng ứng dụng vào quân sự làm thay đổi căn bản phương thức chỉ huy quân đội. Những năm 30 của thế kỷ 20, sau khi người Anh phát minh ra-đa, kỹ thuật vô tuyến điện được ứng dụng vào các mặt trinh sát, cảnh giới, theo dõi, điều khiển hoả lực và dẫn đường, nâng cao hiệu năng tác chiến của bộ đội.

Sau đại chiến thế giới lần thứ hai, phương tiện chỉ huy cũ kỹ, lạc hậu đã không thể thích ứng được với đòi hỏi cấp bách của chiến tranh,phương tiện chỉ huy truyền thống phải đối mặt với cuộc thử thách thay xương đổi thịt. Để có thể thích ứng được với nhu cầu chiến tranh hiện đại, từ những năm 50 của thế kỷ 20, một số nước đã xây dựng hệ thống chỉ huy, kiểm soát, truyền tin và tình báo (hệ thống C3I) (có quốc gia còn nhấn mạnh kỹ thuật máy tính trong hệ thống C3I, quy nạp vào C3I thành C4I; có quốc gia lại gộp cả giám sát và trinh sát thành C4ISR) và ngày càng phát triển theo hướng tự động hoá cao, linh hoạt, tin cậy, phản ứng nhanh khả năng sinh tồn mạnh, tính bảo mật tốt. Hệ thống C3I được xây dựng trên cơ sở lý luận của lý thuyết hệ thống, lý thuyết kiểm soát và lý thuyết tin học hiện đại, là hệ thống lấy vũ khí trang bị điện từ, quang điện làm chủ thể, lấy máy tính làm hạt nhân, lấy nhận biết, phân biệt, truyền dẫn, xử lý thông tin làm thủ đoạn, kết nối người chỉ huy các cấp với người lính chiến đấu thành tổng thể hữu cơ, để cùng thực hiện nhiệm vụ chỉ huy tác chiến, kiểm soát, truyền tin và trinh sát. Kỹ thuật hệ thống C3I bao gồm kỹ thuật kết nối thông nhau, kỹ thuật công trình phần mềm, kỹ thuật ra đa độ nhạy cao, kỹ thuật xử lý tín hiệu và hình ảnh, kỹ thuật hội tụ dữ liệu. Hệ thống C3I sử dụng những kỹ thuật này không những có thể thu thập, xử lý, truyền tin tình báo, chi viện điều động bố trí và hiệp đồng binh lực, thực hiện chỉ huy tác chiến mà còn kết nối các loại vũ khí thành một khối, làm chúng phát huy được hiệu năng và uy lực tối đa 1+1>2

Đặc điểm phát triển hệ thống C3I của các cường quốc quân sự phát triển hiện nay là: Phát triển hệ thống thám sát trinh sát có nhiều thủ đoạn, độ chính xác cao, cự ly xa; phát triển hệ thống truyền tin có khả năng bảo mật, chống phá huỷ, chống nhiễu; phát triển hệ thống xử lý dữ liệu tự động rải rác trí năng hoá; coi trọng tính thông nhau và tính kiêm nhiệm của hệ thống, nâng cao trình độ nhất thể hoá và hiệu năng tổng thể.

Hệ thống C3I hiện đại đã rút ngắn rất lớn thời gian của chu kỳ tác chiến giám sát chiến trường; phát hiện mục tiêu - đánh giá và xử lý thông tin - ra chỉ lệnh tác chiến và thực tiễn công kích, từ đó làm cho thời gian tác chiến thực tế bằng súng đạn càng ngắn, nhịp độ chiến tranh càng nhanh, một cuộc chiến tranh có thể chỉ là một lần chiến dịch, thậm chí chỉ là một cuộc chiến đấu, trận đầu có thể đã là một trận quyết chiến. Từ những năm 80 của thế kỷ 20, những cuộc chiến tranh có trình độ tương đối cao về kỹ thuật cao trên thế giới, nói chung đều có thời gian liên tục tương đối ngắn. Năm 1986, cuộc chiến tranh "kiểu phẫu thuật ngoại khoa" của Mỹ tập kích đường không vào Li-bi, toàn bộ hành động tập kích đường không chỉ có 18 phút, trong đó thời gian liên tục công kích mục tiêu chủ yếu chỉ có 11 phút. Năm 1989 cuộc tác chiến chủ yếu của quân Mỹ trong chiến tranh xâm nhập Panama chỉ có 15 giờ. Cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 và cuộc chiến tranh Cô-xô-vô năm 1999 có quy mô tương đối lớn, thời gian liên tục cũng không quá 42 ngày và 78 ngày. Tác chiến mặt đất trong chiến tranh vùng Vịnh chỉ có 100 giờ. Trong đó hệ thống C3I đã phát huy tác dụng then chốt. Hệ thống C3I hiệu năng cao là điều kiện quan trọng nâng cao hiệu năng chỉ huy tác chiến trong chiến tranh cục bộ kỹ thuật cao, và cũng là "phương tiện tăng bội sức mạnh" không thể thiếu để tăng cường khả năng tác chiến tổng thể.

Kỹ thuật C3I trong tương lai sẽ phát triền theo hướng nâng cao khả năng chỉ huy tác chiến hiệp đồng quân chủng, khả năng cơ động phản ứng nhanh của hệ thống, khả năng sinh tồn chống phá huỷ, khả năng tổ chức mạng kết nối mạng, đồng thời với việc tiếp tục phát triển C3I chiến lược còn phát triển C3I ở tầng ngoài vũ trụ. Dự tính sang thế kỷ tới, hệ thống C3I sẽ từ vũ trụ kéo dài xuống tận biển sâu, hình thành mạnh lớn bố trí lập thể, nối thông toàn cầu. Cho nên kỹ thuật hệ thống C3I thế hệ mới là kỹ thuật nhất thể hoá hệ thống sẽ nổi trội, kỹ thuật này bao gồm kỹ thuật nhất thể hoá C3I-EW, kỹ thuật nhất thể hoá nhiều xen-xơ, kỹ thuật nhất thể hoá trí năng nhân tạo với tái sinh phần mềm và kỹ thuật thiết kế hệ thống IC.

Cần phải nói rằng, thực chất của hệ thống C3I là hệ thống đối thoại giữa người với máy, dựa vào kỹ thuật máy tính điện tử giúp người chỉ huy chiến trường phán đoán tình hình, hạ quyết tâm.

Nhà khoa học nổi tiếng Tiền Học Thâm đã từng nói "dùng kỹ thuật thông tin và tình báo hiện đại tổ chức hệ thống chỉ huy, rồi dùng kỹ thuật mô phỏng để xác định, mô phỏng và chọn phương án tác chiến tối ưu, đó là thực chất hệ thống chỉ huy hiện đại". Con người vĩnh viễn là nhân tố chủ yếu nhất trong hệ thống, là người quyết định. Còn hệ thống chỉ có thể là chấp hành càng nhanh càng tốt, càng toàn diện và kích động vai trò năng động chủ quan của con người truyền đạt một cách hoàn mỹ toàn diện nhanh chóng ý chí của người chỉ huy tác chiến, để thực hiện nhiệm vụ chiến đấu.

Kỹ thuật C3I là kỹ thuật vận dụng lý luận và phương pháp công trình hệ thống để phát triển và quản lý hệ thống chỉ huy, kiểm soát, truyền tin, tình báo quân sự. Tổng thống Mỹ sử dụng C3I để hạ lệnh cho bộ đội ở tuyến một, nhanh nhất chỉ cần đến 6 phút, nếu hạ lệnh vượt cấp, nhanh nhất chỉ cần 1 đến 3 phút.

Kỹ thuật hàng không vũ trụ quân dụng

Kỹ thuật vũ trụ hàng không quân sự là một môn kỹ thuật công trình có tính tổng hợp phát triển và sử dụng khoảng không vũ trụ nhằm mục đích ứng dụng quân sự. Đến nay các nước trên thế giới đã phóng hơn 5000 khí cụ hàng không vũ trụ, trong đó 70% dùng vào mục đích quân sự.

Ngày 4-10-1957 ngày vệ tinh nhân tạo của Liên Xô, khí cụ hàng không vũ trụ đầu tiên trong lịch sử loài người được phóng lên vũ trụ. Từ đó loài người bước vào thời đại hàng không vũ trụ. Khoảng không vũ trụ tĩnh lặng hàng tỷ năm không còn yên tĩnh được nữa.

Mới đầu khí cụ hàng không vũ trụ do con người chế tạo đều tương đối giản đơn, sau khi phóng lên trời thường không thể thu hồi được nữa, chưa nói gì đến chuyện ứng dụng trong quân sự. Đến ngày 10-8-1960, vệ tinh trinh sát chụp ảnh của Mỹ "người phát hiện số 1
" được phóng lên và thu hồi thành công, mở màn cho việc sử dụng không gian vào mục đích quân sự.
Năm 1963, Mỹ sử dụng kỹ thuật truyền tin trung kế vi sóng phóng thành công vệ tinh truyền tin kiểu năng động "sao điện số 1", bắt đầu lịch sử truyền tin vệ tinh. Ngày 16-7-1969, con tàu vũ trụ Apolo chở người đổ bộ lên mặt trăng thành công, đánh dấu việc loài người đã hoàn thành thời kỳ đầu thăm dò và thử nghiệm ứng dụng vũ trụ. Bước vào những năm 70, các loại khí cụ hàng không vũ trụ quân dụng xuất hiện như măng xuân gặp mưa, dày đặc trên bầu trời. Từ những năm 80, sự phát triển của kỹ thuật hàng không vũ trụ các nước đã xuất hiện một viễn cảnh và đặc điểm mới. Khí cụ hàng không vũ trụ hiệu năng cao, nhiều công dụng thuộc thế hệ thứ ba, thứ tư nối tiếp nhau xuất hiện. Công cuộc nghiên cứu chế tạo con tàu hàng không vũ trụ chở người đã có bước tiến nhảy vọt, lần lượt nghiên cứu chế tạo ra trạm không gian vĩnh cửu và máy bay hàng không vũ trụ, thực hiện ghép nối con tàu vũ trụ với trạm không gian và những chuyến bay cơ động đi về có tính lịch sử giữa vũ trụ và trái đất, khiến cho các khí cụ hàng không vũ trụ lần đầu tiên có được bến đậu trên vũ trụ để thực hiện việc thu hồi, sửa chữa, tiếp dầu, đồng thời cũng là căn cứ hoạt động để chỉ huy, kiểm soát, tác chiến, tạo điều kiện để con người khai phá, sử dụng tầng ngoài không gian vào mục đích quân sự với quy mô to lớn hơn nữa.

Ngày 13-9-1985, một chiếc máy bay chiến đấu F-15 của Mỹ cất cánh từ căn cứ không quân Edward, sử dụng thành công tên lửa chống vệ tinh, bắn huỷ một vệ tinh cũ đã bỏ phế, đánh dấu việc tên lửa chống vệ tinh đã được ứng dụng trong thực tế chiến đấu. Cuộc chạy đua quân sự trên tầng ngoài không gian lại sang trang mới. Tiếp sau đó là công cuộc nghiên cứu vũ khí động năng vũ trụ, vũ khí định hướng năng lượng, pháo điện từ là những vũ khí vũ trụ khái niệm mới cũng được triển khai rầm rộ.

Sự phát triển khí cụ hàng không vũ trụ quân dụng, làm cho khả năng trinh sát quân sự, truyền tin, đo vẽ bản đồ, dẫn đường, định vị, báo động từ xa, giám sát và dự báo khí tượng được nâng cao chưa từng thấy.

Việc ứng dụng kỹ thuật hàng không vũ trụ quân sự chủ yếu gồm có 4 mặt: Giám sát hàng không vũ trụ, chi viện hàng không vũ trụ, tác chiến hàng không vũ trụ và bảo đảm hậu cần hàng không vũ trụ. Giám sát hàng không vũ trụ là những việc sử dụng ưu thế của khí cụ hàng không vũ trụ có phạm vi giám sát lớn, không bị hạn chế bởi điều kiện địa lý và biên giới quốc gia, có thể giám sát định kỳ lặp đi lặp lại một khu vực, có thể nhanh chóng thu được những tình báo mà các phương tiện khác khó thu được. Tiến hành giám sát mục tiêu bằng các loại thiết bị trinh sát, giám sát trên khí cụ hàng không vũ trụ, chủ yếu gồm trinh sát chụp ảnh, trinh sát điện tử báo động tên lửa từ xa, giám sát hải dương và giám sát các vụ nổ hạt nhân. Chi viện hàng không vũ trụ là sử dụng kỹ thuật trên không, gồm truyền tin quân sự, quan trắc khí tượng quân sự, dẫn đường và đo đạc quân sự. Hai mặt trên đây đều đã được ứng dụng rộng rãi và phát triển theo kỹ thuật điện tử, kỹ thuật máy tính xen-xơ, khả năng của nó ngày càng được nâng cao.

Tác chiến hàng không vũ trụ là sử dụng vũ khí năng lượng định hướng hoặc vũ khí động năng như la-de, chùm sóng ion, sóng vi ba để công kích, phá huỷ mục tiêu là khí cụ hàng không vũ trụ hoặc tên lửa đường đạn, hoặc sử dụng cánh tay máy lắp trên khí cụ hàng không vũ trụ người máy vũ trụ hoặc người phi hành vũ trụ để trực tiếp phá hoại hoặc chụp bắt khí cụ hàng không vũ trụ quân dụng của địch. Kỹ thuật về mặt này còn đang trong giai đoạn nghiên cứu và thử nghiệm ban đầu đã có thể sử dụng vệ tinh đánh chặn tiếp cận vệ tinh đối phương, dùng phương thức tự nổ hoặc va đập để đạt mục đích công kích huỷ diệt vệ tinh đối phương. Bảo đảm hậu cần hàng không vũ trụ là những hoạt động sử dụng khí cụ hàng không vũ trụ đang bay trong không gian để đo kiểm, sửa chữa, nạp nhiên liệu, thay thiết bị máy móc, thay linh kiện và các khí tài tiêu hao khác, tổ hợp và kiến tạo khí cụ hàng không vũ trụ quân dụng. Hiện nay kỹ thuật về mặy này còn trong giai đoạn nghiên cứu thăm dò.

Năm 1985, Mỹ thành lập bộ tư lệnh hàng không vũ trụ quân sự liên hợp. Hiện nay trong hơn 100 nhân viên phi hành vũ trụ, có đến 2/3 là quân nhân. Các chuyên gia phương Tây dự đoán, sang thế kỷ tới, "quân chủng vũ trụ" của Mỹ sẽ gồm nhiều binh chủng: binh chủng hàng không vũ trụ tiêm kích, binh chủng hàng không vũ trụ oanh tạc, binh chủng hàng không vũ trụ trinh sát, binh chủng hàng không vũ trụ cứu viện, binh chủng hàng không vũ trụ vận tải. Năm 1992, Nga đi đầu xây dựng bộ đội hàng không vũ trụ. Đến cuối năm 1997, tổng cộng Mỹ tiến hành tiến hành 118 lần phóng tàu vũ trụ chở người, đưa 537 nhà phi hành vũ trụ lên không gian. Liên Xô và Nga phóng tất cả 85 lần tàu vũ trụ chở người, đưa 191 nhà phi hành vũ trụ lên không gian. Trọng điểm chạy đua vũ trang giữa các nước lớn quân sự đã dần dần chuyển sang tầng ngoài không gian, những cuộc giao chiến trên chiến trường trong thế kỷ tương lai sẽ là những cuộc đại chiến toàn phương vị trên chiến trường lập thể 6 chiều trên bộ, trên biển, trên không, trên vũ trụ, trên sóng điện từ, trên mạng, cuộc chiến tranh giữa các vì sao sẽ từ trong các trường quay của Hô-li-út bước ra trận địa tiền duyên của đấu tranh quân sự.

CHIẾN TRANH CÔNG-NGHỆ

Phần I
Lê Chánh Thiêm

A. MỞ ĐẦU.

Ngày nay, nhân-loại đã đi những bước dài trong việc áp dụng các thành tựu về khoa-học, kỹ-thuật trong mọi ngành nhằm phục vụ cho quyền lợi của con người. Chỉ riêng trong lĩnh-vực quân-sự, không biết bao nhiêu kết quả đã được đúc kết qua rất nhiều thí nghiệm để hoàn thành sản phẩm, đã được áp-dụng. Những phát minh, phát kiến, nghiên cứu mới nầy được áp dụng để đưa vào sản xuất hầu cung cấp cho nhu-cầu cho chiến-tranh: trong tiến công hay gìn-giữ, bảo-vệ hòa-bình. Tất cả những thiết-bị công-nghệ cao, tân-kỳ về quân-sự được sản-xuất để cung ứng cho nhu cầu nhằm giảm thiểu số thương vong, đem đến kết quả hữu hiệu, giảm thiểu bớt các trở ngại, ít tốn kém tiền bạc, bảo vệ sinh mạng cho binh-sĩ, tránh các sai lầm có thể gây ra thương vong v.v… mà mang lại chiến-thắng nhanh chóng, chắc-chắn.

Trong phạm vi đề tài nầy, xin giới-thiệu đến độc giả một số thành tựu khoa học mới được ứng dụng để cung-ứng cho nhu cầu chiến-tranh, những điều mới nghe qua tưởng như chỉ có trong sách vở, là chuyện giả tưởng (người Việt ta thường gọi là chuyện Tề Thiên) nhưng đã và sẽ được áp-dụng trên nhiều loại chiến-trường, đó là phương thức, hình thái chiến tranh mới: chiến tranh công nghệ.

B. THẾ NÀO LÀ CHIẾN TRANH CÔNG NGHỆ?

Trong thời gian gần đây, chúng ta được nghe đến các danh-từ mới lạ liên quan đến chiến tranh như: “chiến-tranh chính-xác”, “chiến-tranh thông-tin”, “chiến tranh công-nghệ cao”, “chiến-lược-số-hóa”, “chiến tranh điện tử”, “chiến tranh vi trùng”, “tác chiến điện tử” v.v..., nhất là thường được báo chí đề cập đến khi có cuộc chiến nào sắp xảy ra hay so sánh tương quan lực lượng giữa các phe phái đối đầu nhau.

Sở dĩ người ta dùng các từ ngữ đó bởi các cuộc chiến ngày nay mang hình thái khác hơn các cuộc chiến cổ điển quy ước từ trước. Trên chiến trường ngày nay, với bao thiết-bị được kể đến vì được phổ biến, có loại đã được đem ra xử dụng, có loại còn đang thí-nghiệm; có loại đã được thông-báo, có loại còn đang dấu kín với nhiều lý do. Với Hoa Kỳ, chỉ những bí mật quốc phòng quan trọng mới được “dấu kỹ” còn đa số đều có thời hạn sẽ được giải mã (1).

Các tiền bộ về khoa-học kỹ-thuật đã cung ứng cho con người những thành-quả thật hữu-hiệu để áp-dụng cho chiến tranh ngày nay và trong tương lai, cuộc chiến được “công-nghệ-hóa” toàn diện.


Cuốn sách "Chân dung người lính của thế kỷ thứ 21.

Trong chiến-tranh quy-ước cũ, người lính chiến tại mặt trận phải làm tất cả mọi việc. Đối với các cấp chỉ huy, phải nghiên-cứu chiến-lược, chiến-thuật để ra lệnh cho quân nhân thi hành, thay đổi chiến thuật tùy theo hoàn cảnh, trận địa. Về nhiệm vụ của Ban tham mưu tại các căn cứ, cấp chỉ huy phải theo dõi mọi diễn biến tại trận địa để “điều binh, khiển tướng”, để thay đổi chiến thuật, chiến lược, tiếp vận, yểm trợ, tăng phái hay xuất phái các đơn vị quân đội khi cần. Ngoài ra, còn bao chuyện cần thiết khác luôn phải sẵn sàng để đáp ứng cho nhu cầu chiến cuộc khi cần đến để đem lại chiến thắng.

Với binh sĩ chiến đấu, họ phải trực chiến với kẻ thù, phải đối diện với hiểm nguy, phải nhận lệnh, thi hành lệnh do cấp chỉ huy trực tiếp ban hành, phải giúp đỡ và cộng tác với đồng đội… Ngoài ra, họ còn có thể làm nhiệm vụ tản thương, tiếp vận, hiệp đồng tác chiến v.v…Nói chung, nhiệm vụ của người lính chiến đấu được xem là nặng nề nhất, nguy hiểm nhất. Dĩ nhiên, công trạng của họ cũng được tuyên dương và được đãi ngộ xứng đáng.


Ngày nay, người ta dùng từ-ngữ “robosoldiers” (người lính máy) hay “FIST”, Future Intergrated Soldier Technology: “Quân nhân liên-kết với công-nghệ thương lai” để chỉ người lính đang tham chiến, trong hiện tại của thời kỳ thí nghiệm. Những người lính máy nầy có thể là một chiến binh tác chiến, nghĩa là đối đầu với địch quân tại trận địa, là một chiến binh đi thám thính, là một lính “trinh sát”, là một chuyên viên tháo gỡ chất nổ, mìn bẫy, là chuyên viên tiếp tế, tản thương,…nghĩa là thi hành tất cả nhiệm vụ của một chiến binh tại tiền tuyến hay ở hậu phương. Đó là những con người bằng xương bằng thịt hay những robot, người máy.

Các chiến binh nầy được trang bị thật đầy đủ, được yểm trợ tối đa, toàn diện. Các tin tức về tình-báo, thời-tiết, về lực lượng đối phương v.v...được các vệ-tinh viễn-thông, radar, phi-cơ thám-thính, tin tức tình-báo, thám không...gởi về tổng hành dinh tức thời để từ đó, Bộ Chỉ Huy sàng lọc, phối kiểm, đối chiếu…ngõ hầu tìm giải pháp tối ưu để áp dụng được hầu cung cấp cho các robosoldiers. Các chiến binh được thông tin đầy đủ qua các trang bị của họ mang theo, để biết các tin tức, hình ảnh, mệnh lệnh, chỉ thị…cho họ thi hành nhiệm vụ. Họ cũng liên lạc trực tiếp đến đồng đội tại mặt trận.

Trước đây - ngay cả hiện tại với quân lực các nước nghèo vẫn còn xử dụng - từng người lính không thể liên lạc thẳng với đồng đội hay với Bộ Chỉ Huy mà chỉ qua một máy truyền tin chung của cấp tiểu đội, cấp trung đội hay từng toán. Bộ chỉ huy chỉ liên lạc với vị cấp trưởng chức không thể liên lạc với từng người. Ngày nay, chiến binh có thể liên lạc thẳng từng người trong nhóm với nhau vì đã có hệ thống thông tin gắn trên chiếc mũ sắt của họ. Do vậy, họ cũng dễ dàng gởi các tin tức tại chiến trường về trung tâm chỉ huy. Điều đặc biết là các tin tức, hình ảnh mà họ gởi về đồng thời với thực tại ở mặt trận ngay lúc đó nên tạo mọi sự dễ dàng cho cấp chỉ huy hay trung tâm hành quân để đối phó cho hợp với hoàn cảnh đang xảy ra tại mặt trận.

Về vũ khí cá-nhân của Robosoldiers cũng khác xưa: được gắn các thiệt-bị điện tử trên các vũ khí quy ước. Súng được gắn ống nhắm trên đó, qua màn ảnh, họ nhắm mục tiêu mà chỉ cần nhìn vào màn hình. Xử dụng máy nhắm để bắn dễ trúng mục tiêu, có ống nhắm bằng tia hồng ngoại tuyến để ban đêm nhìn rõ hơn. Tùy theo nhu cầu chiến trường, người lính chiến còn được cấp cho các loại súng đặc biệt như súng điện-tử, súng bắn xuyên qua góc (corner shot), súng radar, súng điện, súng bắn sẻ.

Ngày nay, sau cuộc chiến Afghanistan và Iraq cũng như trong tương lai rất gần, các chiến-lược, chiến-thuật về quân-sự phải được được thay đổi cho phù-hợp khi áp-dụng công-nghệ chiến tranh mới. Quân nhân chỉ là người thi-hành theo các chỉ-thị, mệnh lệnh,…là một “người máy” thật sự. Họ không cần suy-nghĩ, tính toán vì họ được cung-cấp các dữ-kiện một cách đầy đủ, chính-xác, nhanh-chóng, họ chỉ là một phần nhỏ trong “hệ thống thông-tin chính-xác” mà thôi, chỉ thi hành lệnh mà không cần suy xét, tính toán gì cả.

Điển hình, trong chiến dịch mang tên Operation Telic, đơn vị 42 Thủy-quân Lục-chiến của Quân-lực Hoàng-Gia Anh thực hiện tại Iraq, cùng các đơn vị quân đội Mỹ tham chiến tại đây, quân nhân được trang bị những thiết-bị hiện đại nhất, do đó đã thu được nhiều thành quả đáng kể, trong đó một số tin tức về các kỹ thuật được phổ biến, một số khác còn được dấu kín.


Pháo đài bay B-52 Stratofortress

Đối với quân lực Mỹ tại hai chiến trường Afghoanistan và Iraq, các chiến binh được trang bị đầy đủ các trang cụ tối tân nhất mà ngày nay nhân loại đã có. Điều nầy, trong nhiều tài liệu ghi nhận, đã làm cho nhiều giới chức quân sự của nhiều nước ghen tị, trong đó có cả Trung Cộng, một nước đang “hiện đại hóa nhảy vọt” về quân sự. Xin xem họ nói gì về quân đội Mỹ, ở phần sau.

Sau thế chiến thư hai, gần nhất là sau khi cuộc chiến tranh lạnh chấm dứt, quân lực Mỹ không còn đối thủ về quân sự. Do đó, các giới chức lãnh đạo áp dụng các chiến thuật mới lạ như “đánh phủ đầu”, “tiên hạ thủ vi cường”, “đơn phương tấn công”, không cần được sự đồng thuận của các cơ quan quốc tế (như Liên Hiệp Quốc, các nước đồng minh…) mà vẫn khai chiến. Chưa biết kế hoạch quân sự của đảng dân Chủ sau khi Obama đắc cử như thế nào. Hiện nay, có hai học thuyết chiến tranh đang được quân đội Hoa Kỳ áp dụng.

Học thuyết thứ nhất là “Học thuyết chiến-tranh Powell”, mang tên của tướng Powell, người hùng của Quân lực Mỹ trong hai cuộc chiến Vùng Vịnh. Theo học thuyết nầy, có ba điều: thứ nhất, phải đánh bất kỳ nước thù địch nào nếu cần, để bảo vệ quyền lợi nước Mỹ. Thứ hai, chỉ nên phát động chiến tranh nếu được dân chúng ủng hộ, dư luận đồng tình. Thứ ba, khi đánh, Hoa Kỳ phải dùng lực-lượng áp đảo để chiến thắng đối phương. Để áp dụng các tiêu đề nầy, quân đội Mỹ phải nắm rõ ràng mục-tiêu và sử-dụng vũ-lực áp-đảo. Điều nầy có nghĩa trước khi mở màn trận đánh, quân đội Mỹ phải chuẩn bị hoàn tất và nắm rõ mọi chuyện: từ phía ta và địch; khi chiến trận xảy ra, phải dùng vũ lực tối đa trong thế áp đảo. Do đó, sác xuất chiến thắng phải đến một cách chắc chắn, Hoa kỳ đánh trong thế mạnh.


Chiến đấu cơ A-10 Thunderbolt-II

Thứ hai là “học thuyết Rumsfeld”, mang tên vị Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ trong nhiệm kỳ đầu của Tổng Thống George W Bush. Theo học thuyết nầy, cũng có ba tiêu chí. Thứ nhất, khi tham chiến, Hoa Kỳ chỉ “dùng số lượng binh lính ít hơn phía địch quân nhưng phải trong tình trạng cực-kỳ tinh-nhuệ”. Điều nầy có nghĩa không cần quân số đông (để tránh thiệt hại về nhân mạng) mà chỉ chú trọng đến các phương tiện tân tiến để trang bị cho quân nhân hầu có thể tiêu diệt quân thù một cách hữu hiệu. Mục tiêu thứ hai là “tập trung vào các chiến-dịch đặc biệt”. Quân lực Mỹ chỉ tham chiến tại những chiến trường cần thiết, tại nơi mà cần có sự hiện diện của người Mỹ theo nhu cầu chiến thuật, chiến lược của Bộ Quốc Phòng Mỹ. Điều cuối cùng là “xử dụng không lực và áp dụng công-nghệ cao” cho chiến tranh. Đây là điểm then chốt của học thuyết nầy.

Với tiềm lực quân sự hùng hậu, là một quân đội thiện chiến, trang bị đầy đủ, với nguồn tiếp vận dồi dào và nhanh chóng, có thể đáp ứng ngay theo nhu cầu của chiến trường đòi hỏi, quân lực Mỹ phải thanh toán chiến trường nhanh. Như thế, học thuyết nầy chú trọng đến Không quân, đặt nặng đến sự nhanh chóng, dồi dào, hữu hiệu…mà Không quân đang nắm. Ngoài ra, tiêu đề nầy cho thấy cần triệt để khai thác các trang cụ tân tiến mà công nghệ quốc phòng Mỹ đã dày công sáng chế.

Nhìn qua hai học thuyết đều liên quan đến tiêu đề của bài nầy. Áp dụng khoa học kỹ thuật vào quân sự, cái lợi của quân lực Mỹ là có thể tham chiến cùng lúc trên nhiều mặt trận. Hiện nay, quân Mỹ đang tham chiến tại 2 mặt trận, nơi nào cũng cần thiết, cũng nặng nề. Hai học thuyết chiên tranh trên có ít điểm tương đồng nhưng có nhiều dị biệt. Dĩ nhiên tùy chiến trương, tùy mục tiêu, tùy chiến thuật chiến lược,…các cấp chỉ huy trong Quân lực Mỹ phải nghiên cứu, cần phải sửa đổi để áp dụng cho phù hợp theo nhu cầu của trận chiến mới.

Theo Đại Tá hồi-hưu Daniel Smith, nhà phân-tích các vấn-đề quân-sự tại Ủy-ban Pháp-chế Quốc-gia tại Washington DC. nhận-định:

-“Trong tương lai rất gần, Bộ-binh và Thủy-quân Lục-chiến Mỹ sẽ ngày càng giống nhau: gọn nhẹ, lưu-động và dễ phối-trí. Số lượng xe tăng cơ-giới và pháo binh hạng nặng sẽ giảm. Các chiến-dịch đặc-biệt sẽ lớn hơn và chủ động hơn”.

Để thực hiện được các điều vừa đề cập trên, chắc chắn phải cần một nhu cầu thích hợp về trang bị cho quân-đội Mỹ, do đó, các thiết-bị mới cần phải được nghiên-cứu và sản xuất. Theo lời của ông Jan Walker, phát ngôn viên của “Cơ quan Nghiên cứu Dự án Quốc phòng Cao cấp” (Defense Advanced Research Projects Agency, gọi tắt là DARPA), là tổ chức chuyên nghiên cứu và phát triển các thiết bị mới, trực thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ cho biết:

-“Chính phủ Mỹ đang tham gia vào nhiều công trình nghiên cứu các công nghệ mới cho quốc phòng”.


Tổng hành dinh của DARPR ở thành phố Arlington, Virginia.

Quân đội Mỹ đã áp-dụng khoa-học kỹ-thuật từ trước nay nhưng ngày càng có nhiều trang cụ hiện-đại hơn. Chính quyền của Tổng-Thống Bush dự trù rút bớt quân đội Mỹ đang trú đóng tại nước ngoài về nước trong kế-hoạch “tái phối-trí quân-lực”. Việc rút quân nầy không làm thay đổi cán cân lực lượng vì theo lời một giới chức Ngũ Giác Đài cho biết:

-“Mặc dù rút quân về nhưng điều đó không có nghĩa là Mỹ giảm bớt sự cam-kết của mình với đồng-minh. Khi số quân giảm bớt thì khí-giới và kỹ-thuật sẽ bù lại hơn số đó”.

Một giới chức cao cấp khác trong chính quyền Mỹ cho báo giới hay:

-“Tổng-thống Bush sẽ thảo luận cách thức tái phối-trí năng lực quân-sự của Mỹ nhằm đáp-ứng những mối đe-dọa của thế-kỷ 21 bằng kỹ-thuật tân-kỳ và khả-năng mới”.

Trong bài diễn-văn đọc trước gần 15.000 người thuộc “Tổ-chức Cựu Chiến Binh Các Cuộc Chiến-tranh ở Ngoại quốc” (Veterans of Foreign Wars) tại Cincinati, Ohio và tại Kansas City thuộc Missouri, Tổng-thống Bush công-bố kế-hoạch:

- “Bộ Quốc-phòng sẽ dùng đội quân trang-bị khoa-học kỹ-thuật hiện-đại, có sức di-chuyển linh-hoạt, trong tương-lai gần để bảo-vệ tổ quốc”.

Tại cuộc hội nghị 3 ngày tại New Orleans, Louisiana, Bộ trưởng Tư-Pháp John Ashcroft cũng đề cập đến việc Mỹ sẽ ứng-dụng kỹ-thuật tân-tiến vào việc khám-phá các tội phạm và nghi-can khủng-bố để bảo-vệ đất nước. Như vậy, việc áp dụng thành tựu khoa học không những cho các hoạt-động quân-sự mà còn cho cả dân-sự nữa.

Theo kế-hoạch “Tái phối-trí quân-đội” song song với kế-hoạch “Lá chắn phòng-thủ phi-đạn” cùng việc gia-tăng sản-xuất kỹ-thuật trong chiến-tranh để trang-bị cho quân-lực Mỹ là một phần trong chủ-trương của chính quyền Mỹ ở Washington DC là dùng kỹ-thuật thay cho con người trong các cuộc chiến mà quân đội Mỹ sẽ tham gia.


Chiến đấu cơ A-10 Thunderbolt phóng hỏa tiễn vào mục tiêu.

Chúng ta đã biết chủ-trương của nhóm Tân Bảo-thủ trong Đảng Cộng-Hòa, với chiến-lược phòng-thủ nước Mỹ và toàn cầu đã và sẽ dùng các giàn phi-đạn, hỏa-tiễn, máy bay không người lái, ngoài nhiệm-vụ do thám có thể xạ kích mục-tiêu tức-khắc với kết quả chính xác hơn do chính con người đảm nhiệm. Ngoài ra, sau biến-cố 11-9-2001, mọi chuyện đã cho chúng ta thấy rõ-ràng rằng các hoạt động chống khủng-bố đã làm tăng sức ép lên chính-phủ và các tập-đoàn sản-xuất Hoa-Kỳ trong việc nghiên-cứu, ứng-dụng và sản-xuất các thiết-bị thay thế cho con người trong các công-tác mà đối-phương là kẻ thù tàn-nhẫn nhất đã giết người, tự giết mình không gớm tay, không ngần-ngại. Do đó, chúng ta không ngạc-nhiện khi gọi cuộc chiến thời nay là “chiến-tranh công-nghệ”.

Theo tin tờ Financial Times (Anh) và Washington Post, Mỹ có thể rút 70 ngàn và có thể lên đến 100 ngàn quân về nước trong số 200 ngàn quân đóng ở ngoại quốc (100 ngàn ở Á Châu, 100 ngàn ở Âu châu). Riêng số 150 ngàn quân tại Iraq và Afghanistan không nằm trong kế-hoạch nầy.

Không riêng gì phía Mỹ, các giới chức quân sự Trung Cộng cũng đang đặt nặng vấn đề áp dụng kỹ thuật mới trong quân-đội. Họ đã chỉ thị cho các chiến lược gia nghiên-cứu kỹ-lưỡng chiến-thuật chiến lược của cuộc chiến-tranh Iraq mà họ cho là “hình-thái một cuộc chiến-tranh xuất-phát từ ưu-thế về khoa-học kỹ-thuật của Mỹ”. Các chuyên viên Trung Cộng đối chiếu cuộc chiến Iraq với cuộc chiến Vùng Vịnh năm 1991 và so sánh để rút ra những kinh-nghiệm.

Trong cuốn “Chiến-tranh Không giới hạn” của một Đại Tá Trung Cộng, có đoạn viết:

-“Vào thời điểm chiến tranh vùng Vịnh, chúng ta (Trung Cộng) không thể so sánh nổi với thế-lực khoa-học kỹ-thuật chiến-tranh của Mỹ”.

Chủ tịch Hồ Cẩm Đào của Trung Cộng cũng đã ra chỉ thị:

-“Bộ Chính trị phải tăng cường và tập trung nỗ-lực “yểm-trợ an ninh quốc phòng và hiện đại hóa quân đội”, phải đưa kỹ thuật tin học vào quân đội và động-viên toàn bộ sức mạnh khoa-học kỹ thuật để phục vụ nhu cầu quân đội”.

Chủ tịch Quân Ủy Trung ương quân đội Trung Cộng Jiang Zemin chỉ thị:

- Quân đội phải đẩy mạnh “cuộc cách mạng kỹ-thuật” bằng cách cải tổ quân đội “thành đơn-vị nhỏ nhưng tinh nhuệ hơn dựa vào khoa-học kỹ-thuật”.

Chiến-đấu-cơ F-16 Fighting Falcon

Qua các điều vừa đề cập, thành tựu khoa học kỹ thuật được chính quyền cùng các nhà quân sự nhiều nước chú ý đáng kể để hiện đại hóa quân đội của họ.

Người ta gọi chiến trường Afghanistan và Iraq là “chiến trường thí nghiệm”. Tại đây, Mỹ áp dụng những thành quả mạ họ nghiên cứu từ trước mà chưa có cơ hội thử nghiệm thực tế. Thực vậy, tại hai nơi nầy, người ta biết đến các phương tiện chiến tranh mới mà đề tài nầy nói đến: chiến tranh công nghệ.

C. CHIẾN TRANH AFGHANISTAN.

1. Cuộc chiến tiêu diệt Taliban và Al Qaeda của quân Mỹ.

Sau
biến cố 11-9-2001, trong cuộc điều trần trước Quốc Hội Mỹ vào ngày 20-9-2001 và thông điệp trước quốc dân Mỹ vào ngày 7-10-2001, Tổng Thống Bush cho biết quyết định của chính phủ Mỹ là sẽ tấn công vào Afghanistan để tiêu diệt chế độ Taliban để diệt quân khủng bố Al Qaeda do tên Osama bin Laden cầm đầu. Khi mệnh lệnh tấn công vào Afghanistan của Tổng Thống George W. Bush, Tổng Tư lệnh Tối cao của Quân đội Mỹ ban ra, cuộc hành quân mang tên “Hành Quân Sức Mạnh của Tự Do” (Operation Enduring Freedom), còn gọi là “Cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu” Global War on Terrorism (GWOT) bắt đầu.

Lực lượng tham chiến ban đầu hoàn toàn do quân đội Mỹ, các đồng minh chỉ là nỗ-lực phụ. Bắt đầu ngày 7-10-2001, trước khi cuộc tấn công trên bộ khai diễn, các phi cơ B-1 Lancer, B-2 Spirit và pháo đài bay B-52 Stratofortress, được sự yểm trợ của các loại F-14 Tomcat và F/A-18 Hornet của Hải Quân Mỹ bỏ bom các cứ điểm mà tin tình báo cho hay có quân Taliban trú ngụ. Ngoài ra, các hỏa tiễn Tomahawk được phóng đi từ tàu chiến và tàu ngầm của Mỹ và Anh liên tục bắn vào đất Afghanistan.


Lực lượng Liên quân do Mỹ cầm đầu tiến về mặt trận Afghanistan vào tháng 11-2001, từ trái sang:
MM Maestrale (F 570), De Grasse (D 612); USS John C. Stennis (CVN 74), Charles De Gaulle (R 91), Surcouf (F 711); USS Port Royal (CG-73), HMS Ocean (L 12), USS John F. Kennedy (CV 67), HNLMS Van Amstel (F 831); và MM Durand de la Penne (D 560).

Trận bộ chiến đầu tiên của cuộc hành quân do Task Force Sword (TFS) thuộc Bộ Chỉ Huy Hành quân Đặc Biệt, đặt dưới quyền chỉ huy của Đại Tướng Tommy Frank, Bộ Chỉ huy Trung ương (Central Command) ở Trung Đông thực hiện. Khi màn đêm sắp buông xuống, các chiến sĩ của TFS lên các trực thăng Chinook, có trang bị súng Gunship 6 nòng (xem hình) bay vào vòng chiến, được các chiến đấu cơ hộ tống. Trước khi các Chinook đổ quân, các phi cơ từ các Chiến Đoàn (battle group) (1) Hàng Không Mẫu Hạm (HKMH) oanh tạc phủ đầu, các hỏa tiễn, các khẩu pháo từ các HKMH tới tấp, tối đa nã vào các mục tiêu, dọn bãi để đổ quân. Ngay trong trận đầu tiên, quân nhân của TFS đã tiêu diệt vô số địch quân, bắt sống một số mang về HKMH Kitty Hawk để khai thác. Tàn binh al Qaeda chạy tán loạn, làm mồi cho trực thăng võ trang bắn hạ tuy rằng trong đêm tối. Cứ đêm tối đến, các chiến sĩ thuộc TFS lại vào trận địa, mờ sáng lại trở ra HKMH nghỉ ngơi.

Lực lượng Hải quân tham chiến gồm có Chiến đoàn HKMH Enterprise, Chiến đoàn HKMH George Washington cùng với Chiến đoàn HKMH Kitty Hawk. Các phi đội chiến đấu và oanh-tạc cơ thay phiên nhau cất cánh, bay vào tiêu diệt mục tiêu, mỗi HKMH có từ 85 đến hàng trăm chiến đấu-cơ và oanh-tạc-cơ. Lực Lượng bộ binh của Hoa Kỳ tham chiến gồm: Sư Đoàn 10th Mountain, Sư Đoàn 101st Không vận Kỵ binh, các toán Lực Lượng Đặc Biệt TF 11, TF Bowie và TF Dagger. Quân đội Liên quân gồm có: Thủy Quân Lục Chiến Quân Đội Hoàng Gia Anh quốc, Sư Đoàn 3 Gia Nã đại, Lực Lượng Kỵ binh Nhẹ Nữ Hoàng Canada, Quân Lực Quốc gia Afghanistan, Lực lượng KSK của Đức, Lực Lượng Không Quân Đặc Biệt của Úc, Lực Lượng Không Quân Đặc Biệt của Tân Tây Lan cùng toàn quân của Liên Minh Phương Bắc.


Tướng Franks, Tư Lệnh Mặt trận gặp gỡ các vị chỉ huy Liên Minh Phương Bắc trên đất Afghanistan.

Liên quân tiến quân nhanh hơn người ta tưởng, tiêu diệt dễ dàng các cứ điểm của quân Taliban. Chúng bị vỡ từng mảnh nhỏ và sớm bị loại ra ngoài vòng chiến, Mazari Sharif một lãnh đạo của Taliban bị diệt vào ngày 9-11-2001. Đa số tàn quân của Taliban chạy qua Pakistan. Trận Tora Bora, gồm liên quân Anh Mỹ, Liên Minh Phương Bắc xem như xóa sổ tổ chức Taliban vào tháng 11-2001 trên toàn lãnh thổ Afghanistan. Chiến dịch Operation Enduring Freedom đã giải phóng nhân dân Afghanistan khỏi sự cai trị của tập đoàn lãnh đạo bạo tàn Taliban. Sau đó, chính quyền Afghanistan được thành lập để điều hành quốc gia.

Kể từ cuộc chiến khai diễn đến khi chuyển giao quyền lực cho chính phủ Afghanistan, Hoa Kỳ tốn cho cuộc chiến nầy 0 tỷ Đô La.

2. Các cuộc chiến trên đất Afghanistan.

a. Cuộc chiến với Anh quốc.

Trước
khi quân Hoa Kỳ và Nga hiện diện trên đất Afghanistan, nơi nầy đã ba lần chôn thây quân Anh khi đế quốc nầy xâm lăng Afghanistan. Lần thứ nhất, khi đế quốc Anh bành trướng, Nam Á là vùng đất mà người Anh để mắt đến mà Ấn Độ và Afghanistan là hai vùng gần nhau. Theo lịch sử, qua bao thăng trầm, Afghanistan được thành lập vào thế kỷ 19 với biên giới vẫn chưa ổn định, do sắc tộc Pachtoune thống trị. Năm 1818, Dust Mohammad lên ngôi. Năm 1837, vua Iran mở mặt trận đánh chiếm Herat nên đế quốc Anh nhảy vào cuộc. Quân Anh biết các ngọn đèo ở Afghanistan sẽ mở đường đến Ấn Độ và cho rằng Sa hoàng Nga chắc chắn phải đứng sau lưng Iran nên quyết định liên minh với Dust Mohammad nên cử một công sứ toàn quyền đến Afghanistan. Sa hoàng Nga cũng cử đến Afghanistan một công sứ.


Liên quân Anh - Mỹ tại trận tuyến.

Giống như trước đó, triều đình Afghanistan giữ mối quan hệ với cả đôi bên. Chính quyền Anh không chấp nhận tình trạng nước đôi nầy nên đã đưa đội quân viễn chinh đánh chiếm Kabul, lập Chouia lên ngôi vua, lập nên vương triều Shah Shuja. Dust Mohammad đầu hàng. Con trai Dust Mohammad là Akhbar ở lại Kabul tiếp tục tổ chức đánh du kích, làm cho quân Anh thiệt hại nhiều.

Thấy tình thế nếu kéo dài sự thiệt hại sẽ rất lớn, chính quyền Anh phải cử sứ thần điều đình với Akhbar. Trong thế mạnh, đích thân Akhbar giết luôn sứ thần. Đạo quân Anh, Ấn gồm 4.500 binh sĩ và 12.000 thường dân đi theo phải rút khỏi Afghanistan trong cái lạnh và đói ăn, giống như đạo quân của Napoléon rút khỏi Mạc Tư Khoa năm 1812. Đến đèo Koord-Kabul, đạo quân bị phục kích: tất cả đều bị tiêu diệt hoặc bị bắt sống, chỉ trừ một người duy nhất sống sót chạy về Ấn Độ báo hung tin. Nước Anh đã phải từ bỏ mộng xâm lăng Afghanistan mà chỉ giữ Ấn Độ.

Cuộc chiến tranh thứ hai của Anh ở Afghanistan xảy ra vào năm 1878. Cũng tương tự như các nguyên nhân lần trước. Nước Nga đánh chiếm nhiều vùng ở Afghanistan. Anh không muốn Nga tiến sâu về hướng Ấn Độ là nơi Anh đang chiếm nên Anh đưa quân chiếm Afghanistan. Tháng 5-1879, đại diện chính quyền Anh ký hiệp ước bảo hộ với Afghanistan. Vài tháng sau đó, vị công sứ toàn quyền Anh bị người Afghanistan giết. Chiến tranh trả đũa bùng nổ, Anh chiến thắng nên loại Nga khỏi địa bàn. Anh lập vua Haib Allah lên nắm quyền. Ông nầy khôn khéo, không muốn Afghanistan bị lôi vào chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Năm 1919, Allah đề đạt với phó vương Ấn Độ, công nhận Afghanistan độc lập.

Cuộc chiến tranh thứ ba của Anh tại Afghanistan từ 1919 với chiến dịch mới của Anh, tái đánh Afghanistan, và họ đã thành công. Rút kinh nghiệm hai lần đầu, London chỉ tiến hành những chiến dịch quân sự có quy mô hạn chế rồi chuyển sang chính sách vận động từng phe phái riêng lẻ ở Afghanistan. Để thi hành chủ đích này, họ chủ yếu sử dụng sức mạnh tài chính (tiền, vàng bạc), hứa hẹn những chức vị, mua chuộc phái này, khích bác phái kia để các phe phía chống đối nhau rồi yếu dần hoặc chí ít cũng làm giảm đáng kể sức mạnh tổng hợp các lực lượng chống đối. Tuy nhiên, việc Anh cố ép Afghanistan phải chấp nhận vị vua do họ lập ra nên đã vấp phải sự chống đối quyết liệt của tất cả các phe phái ở đây.

Trong thời gian đó, quân Anh bị rải trên nhiều vùng đất họ chiếm được gọi là “Liên Hiệp Anh”, bao gồm nhiều nơi trên nhiều châu lụ, với câu nói: “Mặt trời không bao giờ lặn trên đất Anh”, nghĩa là Anh chiếm được nhiều nơi trên địa cầu, từ Đông sang Tây nên quân số rất mỏng. Những năm sau, Anh nhận thấy nếu cứ tiếp tục giữ vùng đất khô cằn nầy sẽ không có lợi nên họ rút khỏi Afghanistan. Nhìn chung, quân Anh đã thất bại, chịu tổn thất khá lớn cũng như uy tín giảm sút nặng nề trong thời gian họ hiện diện trên đất Afghanistan.

b. Cuộc chiến với quân Nga.

Mãi
đến năm 1921, vua Aman Allah mới đạt được nguyện vọng: dành được độc lập cho Afghanistan. Những năm sau, vua Maman Allah muốn hiện đại hóa đất nước nhưng vấp phải sự chống đối từ giới tăng lữ bảo thủ. Nội chiến xảy ra giữa các phe phái và kết thúc trong biển máu. Nếu trước Afghanistan là vùng đệm giữa Iran, Sa hoàng và Anh - Ấn thì sau chiến tranh thế giới thứ hai, là vùng đệm tại châu Á của chiến tranh lạnh giữa khối Cộng sản và khối Tự do. Vua Mohammad Zahir đón tiếp cả Eisenhower của Mỹ lẫn Khrouchtchev của Nga. Đến năm 1973, hoàng thân Mohammad Daoud buộc vua Zahir phải thoái vị, phải sống lưu vong, để tuyên bố Afghanistan theo chế độ cộng hòa và lên ông ta làm Tổng thống.


Chiến xa của Nga tại Afghanistan.

Năm 1978, Hoàng thân Daoud bị ám sát, Mohammed Taraki lên cầm quyền rồi bị Hafizullah Amine lật đổ. Ngày 24-12-1979, căn cứ vào hiệp định Nga đã ký kết với Afghanistan trước đó một năm, các binh đoàn quân Nga tiến vào Afghanistan: chiến dịch mang tên “Gió lốc 333” bắt đầu. Dinh tổng thống bị tấn công, một “chính quyền xã hội chủ nghĩa” do Babrak Karmal lãnh đạo được thành lập, do quân Nga hậu thuẫn. Từ 1979-1980, quân Nga chỉ làm nhiệm vụ hỗ trợ chính quyền mới, đóng tại các cứ điểm chiến lược. Sang năm thứ hai, họ bắt đầu phải chiến đấu đánh trả các phần tử nổi dậy do Pakistan vũ trang và Mỹ tài trợ. Thời gian kéo dài, sự thiệt hại của Nga tăng theo, buộc chính quyền Nga thay đổi ý định. Năm 1988, Tổng thống Gorbachev quyết định rút quân về nước. Đợt rút quân cuối cùng khỏi Afghanistan kết thúc vào ngày 15-2-1989.

Trong 10 năm từ năm 1979, có đến 620.000 binh sĩ Nga đặt chân đến Afghanistan. Lực lượng Nga thường trực chiến đấu từ 80.000 đến 105.000 quân. Thiệt hại được chính quyền Nga công bố sau nầy: 15.000 binh sĩ Nga tử trận hoặc mất tích. Thật sự, con số chính xác còn cao gấp nhiều lần. Đến năm 1992, chính quyền “xã hội chủ nghĩa” ở Afghanistan sụp đổ theo, nó “sống dai” hơn chính quyền Nga một năm.

Nhìn chung, trong 10 năm xâm lăng Afghanistan, quân Nga cũng phải trả giá rất đắt khi đưa quân vào Afghanistan. Các hang động hầm hố tại đây đã làm thiệt hại cho quân Nga rất nhiều. Ngoài tổn thất về nhân mạn và của cải, họ còn mất một thứ lớn hơn thế: Tâm trạng cay đắng vì thất bại đã góp phần dẫn đến sự sụp đổ liên bang Nga, tiêu tan một chủ thuyết, sụp đổ cái gọi là thành trì của chủ nghĩa Cộng sản. Nhiều nhà phân tích cho rằng trong các nguyên nhân dẫn đến thất bại của Liên Bang Xô Viết nói riêng, chủ nghĩa Cộng sản nói chung, có những yếu tố đặc thù, từ cuộc xâm lăng Afghanistan.


Bộ binh Nga tại Afghanistan.

Tuy nhiên, các nguyên nhân xuất phát từ chính Liên Xô là đáng kể nhất, họ đã tự làm yếu chính họ. Chỉ riêng về quân sự, chính phủ Mạc Tư Khoa đã “chạy đua” với Mỹ nhiều lãnh vực, làm khánh kiệt kho tàng quốc gia vốn dĩ “không đáng kể” sau khi chiếm từ Sa hoàng. Với một đất nước Nga thua Mỹ trên nhiều phương diện nhưng “tham vọng đế quốc” đã làm mờ mắt các nhà lãnh đạo sắt máu. Tài sản quốc gia đã đổ vào các chương trình không gian, chương trình hiện đại hóa quân sự, viện trợ cho các nước đàn em tay sai để bành trướng chủ-nghĩa hoang tưởng v.v… đã làm đất nước đi đến chỗ “mạt rệp”. Những thất bại trên nhiều mặt liên tiếp đã kéo theo sự sụp đổ một chủ nghĩa mà họ ôm ấp chỉ là một chủ nghĩa hoang tưởng, một “thiên đường” không bao giờ đến, đó là Thiên đường Cộng sản.

Khi quân Nga rút đi, Burhanudin Rabbani, người đứng đầu Liên minh các phe phái Hồi giáo lên làm tổng thống. Từ năm 1992 đến 1996, các phe phái mâu thuẫn, lẫn nhau do nhiều nguyên nhân, dẫn đến nội chiến sắc tộc để giành quyền kiểm soát Kabul. Ngày 27-9-1996, phe Taliban được Pakistan hậu thuẫn, là tác nhân mới trên bàn cờ Afghanistan, đánh chiếm Kabul, thiết lập chính quyền Hồi giáo cực đoan, do giáo sĩ Omar lãnh đạo. Các phe phái thua trận rút dần về miền Bắc, cùng hợp tác lại, thành lập “Mặt Trận Thống Nhất” còn gọi là “Liên minh phương Bắc” để chống Taliban. Mặt trận này bao gồm các tay súng của 3 phe phái chính: 1/ Phe của thủ lĩnh Ahmad Shad Massoud, thuộc sắc tộc Tadjik, sau khi ông bị ám sát chết ngày 9-9-2001 thì Moukhammad Fakhim lãnh đạo, 2/ Phe của tướng Dostom thuộc sắc tộc Ouzbek, và 3, Phe của các phần tử thuộc sắc tộc Hazara.

3. Nói thêm về Nga.

Nhắc
đến Nga mà quên nhắc đến câu nói của Thủ Tướng Nga, Nikita Khrushchev, một trùm Cộng sản hung hăng quả là điều thiếu sót. Trong diễn từ trong một buổi tiếp tân tại sứ quán Ba-Lan ở Mạc-Tư-Khoa vào ngày 18-11-1956, lúc nói đến Mỹ, Nikita Khrushchev đã lớn tiếng "Мы вас похороним!", chuyển dịch (transliterated) là “My vas pokhoronim!”, dịch sang Anh ngữ là "We will bury you!", có nghĩa “Chúng tôi sẽ chôn vùi các anh”. Nguyên văn câu nói đầy đủ là “Нравится вам или нет, но история на нашей стороне. Мы вас закопаем” chuyễn sang Anh ngữ: "Whether you like it or not, history is on our side. We will dig you in", Dầu các ông có thích hay không, lịch sử đứng về phía chúng tôi. Chúng tôi sẽ chôn vùi các ông.


Bộ binh Nga "làm nghĩa vụ quốc tế" tại Afghanistan.

Vào ngày 24-8-1963, tên Cộng Sản đầu sỏ nầy còn nhắc lại điều nầy khi y phát biểu tại tại Yugoslavia:

-“I once said “We will bury you” and I got into trouble with it. Of course we will not bury you with a shovel. Your own working class will bury you," (Trong một lần tôi đã nói “Chúng tôi sẽ chôn vùi các ông” và tôi đã gặp rắc rối vì điều đó. Dĩ nhiên chúng tôi sẽ không chôn các ông với một cái xẻng. Các việc các ông làm sẽ chôn các ông).

Câu nói “We will bury you” được Jan Sejna (sinh ngày 12-5-1927, một tên Tướng vừa là đảng viên Đảng Cộng Sản Czechoslovia) lấy làm tựa đề cho một cuốn sách của ông ta về chiến lược Cộng Sản trong thời chiến tranh lạnh (Cold war).

Có điều mỉa mai mà ít người biết, con trai của tên trùm Cộng Sản hung hăng đó lại “xin nhập quốc tịch Mỹ”, kẻ thù của ông ta. Sergei Nikitich Khrushchev tên Nga LÀ Серrей Никитич Хрущёв, trước khi đến Mỹ để nhận được thẻ xanh của Mỹ vào năm 1994 là một Tiến sĩ làm việc trong Phòng Nghiên cứu Hệ thống hướng dẫn cho Hỏa tiễn và làm việc trong chương trình Không Gian Nga thời Cộng Sản. Sergei cùng vợ và 2 con đã giơ tay “tuyên thệ trung thành với nước Mỹ” khi họ được nhập quốc tịch Mỹ vào ngày 12-7-1999 tại buổi tuyên thệ dành cho các tân công dân Hoa Kỳ, tại giảng đường của Trường Đại học Brown thuộc thành phố Providence, Rhode Island.

Tiếc thay cho cái “thiên đường” mà Khrushchev theo đuổi lại bị chính con ruột của mình ruồng bỏ. Ông Sergei đã nhận ra cái chủ nghĩa hoang tưởng đó nên không thể sống ở nơi mà “hơi hướm cộng sản” vẫn còn, dù đó là nơi chôn nhau cắt rún của mình nên phải sang Mỹ tìm cuộc đời mới trên đất kẻ thù. “Cha làm thầy, con bán sách”, câu Ông Bà chúng ta đã nói, quả không sai!

Về khách quan, một số lớn binh lính Nga chết tại Afghanistan vì những căn bệnh không chửa được. Về chủ quan, chiến thuật quân sự của họ mắc nhiều sai lầm, tinh thần quân lính thì suy sụp. Thêm vào đó, gần như tất cả các phe phái ở Afghanistan đều chống đối ý thức hệ mà Liên Xô mang đến đây. Người Nga đã không lường trước được quan điểm của dân chúng và các phe phái tại Afghanistan. Quân Nga chỉ được một nhóm “trí thức thành thị”, những người từng theo học ở Nga và một số sĩ quan quân đội “say mê lý tưởng Cộng Sản” ủng hộ. Họ thất bại vì đã cố gắng áp đặt đường lối riêng của mình lên một nước mà nơi đó khác cả về văn hóa lẫn tôn giáo với Nga. Sau 10 năm, họ rút khỏi Afghanistan mang theo nỗi nhục nhã vì chiến bại. Ngoài ra, quân Nga mang về cố quốc mầm bệnh tật cùng nỗi ám ảnh khó gột rửa khi không mang về chính quốc điều gì, ngoài chiến bại.


Các chỉ huy của người Afghanistan chống Nga.

Người ta thường nhắc đến “Nỗi ám ảnh của Mỹ sau chiến tranh Việt Nam” với các cựu chiến binh nghiện ngập, thất nghiệp, vô gia cư, gia đình tan vỡ, xã hội Mỹ bị ảnh hưởng, v.v… bởi vì giới truyền thông thiên tả Mỹ thổi phồng theo ý đồ của họ, bởi sự tự do báo chí, bởi người Mỹ không dấu diếm điều xấu gì… Ngược lại, không ai nói đến “nỗi ám ảnh của người Nga sau cuộc chiến Afghanistan”. Chúng ta biết, người Cộng Sản dấu nhẹm những thất bại, những sự thật có hại cho uy tín của họ, những tệ trạng xã hội, tham nhũng, bè phái,… những chuyện mà họ cho là “làm nhục quốc thể”. Có mấy người biết được những của cải mà chính quyền Cộng Sản thu gom từ dân chúng Nga, sau ngày “Liên Bang tang hoang” đi về đâu? Tài sản trong các xí nghiệp quốc doanh vào túi giới nào? Các tệ trạng xã hội như băng đảng, trộm cướp, hối mại quyền thế, tham nhũng…tại Nga, có mấy người được biết? Không những chỉ ở Nga mà cả tại cả các nước Cộng Sản khác như Tàu Cộng, Bắc Hàn, Cuba, Việt Nam, những cái xấu không ai dám thố lộ.

4. Người Nga nói gì về Afghanistan?

Trở
lại chuyện Afghanistan, khi quân Mỹ chuẩn bị tấn công Afghanistan, nhiều sĩ quan cao cấp Nga đã tuyên bố vung vít, khuyên các sĩ quan Mỹ nên nghe theo lời “vàng ngọc” của họ nếu muốn chiến thắng vì họ đã có “kinh nghiệm đầy mình” về đất nước Afghanistan. Ta hãy nghe các Tướng Tá Nga nói những gì.

Đầu tiên là Tướng Boris Gromov, nguyên Tổng Tư Lệnh Binh Đoàn 40, sinh năm 1943, người đã dẫn quân vượt sông Amu Darya kết thúc đợt rút quân cuối cùng của quân Nga ra khỏi Afghanistan. Hiện nay, Gromov giữ chức Bộ trưởng Nội An. Theo ông nầy:

-“Mỹ sẽ sa lầy vào cuộc chiến lâu dài không lối thoát. Mỹ không thể tấn công bằng bộ binh trên quy mô lớn”. Ông ta còn nói:

-“Cứ một binh sĩ Mỹ chiến đấu phải cần đến 4 binh sĩ tiếp tế. Dĩ nhiên Mỹ sẽ thất bại nặng”.

Thứ nhì, cựu Đại tá Không quân Evgueni Zelenov, hiện nay là đại biểu Quốc hội Duma. Ông là phi công từ năm 1979 ở Afghanistan và nhiệm vụ cuối của ông tại chiến trường Afghanistan là đưa toàn bộ nhân viên đại sứ quán Nga ra khỏi Kabul năm 1992 trên 3 máy bay vận tải dưới làn đạn của đối phương. Ông ta được phong “anh hùng” với “chiến công”: một máy bay bị trúng đạn rơi xuống đất trong lần rút quân đó. Có lẽ được thưởng vì đáng lý ra là bị bắn rớt cả 3 chiếc, nhờ ông “giỏi” nên chỉ có một chiếc bị rơi. Ông Evgueni Zelenov đưa ra nhiều nhận định với câu kết luận:

-“Cách tốt nhất là Mỹ nên nhớ bài học của Nga và đừng đặt chân lên Afghanistan”.


Quân Nga hồi hương, với bộ dạng thất thểu, phải dùng "ô tô bước" (đi bộ) do không xe pháo gì.

Người Nga tập làm quen với phương tiện nầy để rồi sẽ dùng đôi chân đó đi đến "Thiên đường Xã Nghĩa" thế nhưng họ đã phải bỏ cuộc nửa chừng vì "thiên đường quá xa vời" (Chú thích của tác giả).

Thứ ba là Tướng Rouslan Aushev, cũng được phong “anh hùng” nhờ “chiến công” tại Afghanistan, hiện là Tổng thống nước Ingouchie. Ông cho rằng:

-“Mỹ đánh ở Afghanistan còn khó thắng hơn so với chiến tranh Việt Nam hay ở khu vực Balkan. Cho dù Mỹ tận dụng tiềm lực không quân cũng không thể đánh đối phương ẩn náu sâu trong núi và lại phải chịu tổn thất cao như Liên Xô trước đây”.

Thứ tư, Tướng Không quân Alexandre Rutskoi, cũng đã được phong “anh hùng” do có thời gian phục vụ tại Afghanistan, cho rằng:

-“Mỹ rất khó dùng chiến tranh chớp nhoáng tại Afghanistan. So với Nga, Mỹ không có biên giới chung nên việc tiếp tế và điều quân sẽ khó khăn bội phần”.

Ông nầy còn cho rằng:

-“Mỹ ném bom hoặc đổ quân là điều rất phiêu lưu. Tốt hơn, Mỹ yểm trợ tiền bạc, vũ khí, đạn dược, lương thực, máy bay, cố vấn, huấn luyện... cho Liên minh phương Bắc đánh lại Taliban”, nghĩa là “Mỹ dừng nên vào đất Afghanistan”.

Cuối cùng là Đại tá Franz Klintsevitch, hiện là đại biểu Quốc hội Douma, từng chiến đấu tại Afghanistan vào năm 1986. Theo ông nầy:

-“Mỹ cần thu thập thông tin tình báo, chuẩn bị dư luận quần chúng, thực hiện chiến tranh tâm lý tại Afghanistan trước khi đưa quân vào Afghanistan”.

Ông ta còn cả quyết rằng:

-“Nếu quân Mỹ đổ vào, cuộc chiến sẽ kéo dài nhiều thập niên, trừ phi “toàn bộ dân Afghanistan đều bị giết sạch”.

Ngoài các tên tuổi vừa nêu ra, còn nhiều “lời vàng ngọc” dành cho người Mỹ khác từ nhiều người Nga, qua kinh nghiệm “chiến bại” của họ khi làm “nghĩa vụ quốc tế” tại đất nước nầy.

Thật sự, mọi chuyện, như chúng ta đã thấy, đã trái ngược với những “kinh nghiệm đầy mình” của các giới chức quân sự Nga. Quân đội Mỹ đã áp dụng nhiều chiến thuật thích hợp để thanh toán chiến trường, chính yếu là họ áp dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật khi chế tạo các khí tài quân sự tân kỳ để áp dụng cho từng loại mục tiêu, cho từng trận chiến.


Hỏa lực Không quân "dọn bãi" trước khi đổ quân.

Với hệ thống hầm hố, địa đạo, quân Mỹ dùng bom áp nhiệt mà người sáng chế là một nữ lưu gốc Việt, bà Dương Nguyệt Ánh. Với địa thế khó dùng quân xa, ngoài việc dùng ngựa, quân Mỹ dùng các chiến xa đặc biệt, dùng robot, dùng máy bay không người lái. Với đêm tối của vùng núi đồi đầy bụi bặm, với hệ thống laser hồng ngoại, binh sĩ có thể nhìn được mục tiêu. Với những nơi quân Mỹ khó vào, đã có hệ thống định vị toàn cầu và các hệ thống tình báo, do thám… báo cáo, họ chỉ việc ra lệnh cho phi cơ không người lái đến phóng rốc kết, hỏa tiễn để thanh toán mục tiêu. Và còn nhiều nữa.

Nếu với một địa hình địa thế hiểm trở như vậy, Afghanistan là “vùng đất bất khả xâm phạm” hay sao? Và như thế, yếu tố “địa lợi” là điểm then chốt cho mọi chiến trường hay sao? Không phải vậy. Ít nhất là hiện tại. Với những đội quân được trang bị những phương tiện có thể khắc chế được trở ngại của địa thế, như quân đội Hoa Kỳ hiện nay, việc giải quyết chiến trường không còn lệ thuộc vào yếu tố “địa lợi” như binh pháp cổ xưa nữa.

Kể từ ngày 7-10.2001 khai diễn cuộc chiến đến nay, quân Mỹ và NATO cùng Lực Lượng Liên Quân còn hiện diện trên đất Afghanistan, cuộc chiến còn đang tiếp diễn, người ngoại quốc còn tiếp tục mất mạng trên đất nước nầy, người dân Afghanistan còn phải chịu cảnh bom đạn, thương vong. Gần đây, qua thắng lợi của Obama và đảng Dân Chủ tại Lưỡng viện Quốc Hội Mỹ, nhiều chuyên gia cho rằng chắc chắn lực lượng Taliban và Al Qaeda sẽ hoạt động mạnh trở lại tại Afghanistan sau bao năm bị Liên quân truy lùng gắt gao bởi họ biết rằng Đảng Dân Chủ nghiêng về đối nội, không có sở trường về điều binh kiển tướng. Họ cho rằng Afghanistan sẽ là điểm nóng trong tương lai. Một nước Nga quyết “lấy lại thế siêu cường” sau khi đã sụp đổ, sẽ dùng lợi thế về địa lý để giúp đỡ các lực lượng chống Mỹ và NATO tạiAfghanistan cũng là điều họ tiên đoán. Và như thế, tương lai của Afghanistan chắc sẽ khong được sáng sủa mấy nếu không nói là tồi-tệ hơn. Thời gian sẽ trả lời.

D. ĐIỂN HÌNH CỦA CHIẾN TRANH CÔNG NGHỆ.

Không
phải lúc nào quân Mỹ có mặt tại chiến địa mới tiêu diệt được quân thù. Với những trang bị, những phương tiện mới, người Mỹ có thể xạ kích địch quân khi cách xa họ có khi đến nửa vòng trái đất. Các chuyên viên Mỹ ngồi tại các trung tâm chỉ huy trên đất Mỹ hay các căn cứ khác trên đất đồng minh, trong phòng gắn máy lạnh, với hệ thống viễn khiển, họ có thể điều động phi cơ, phi cơ không người lái đến tấn công mục tiêu hay quan sát, thám thính, chụp hình v.v…trên vòm trời của mục tiêu rồi chuyển tin về cho họ. Chuyện nầy nói có người không tin: “làm sao đang ở Mỹ mà lái máy bay đi tấn công quân địch được?”. Thật sự là vậy. Xin mời độc giả theo chân các chiến binh Mỹ “ngồi bàn giấy mà đánh giặc” sau đây.


Các Căn cứ Không Quân" (Air Force Base) trong nội địa nước Mỹ.

Tại “Nellis Air Force Base”, Căn cứ Không Quân Nellis - một trong nhiều căn cứ không quân (1) trên đất Mỹ (hình trên) lại “điều hành” cuộc chiến tại hải ngoại - nằm trên đất Nevada, là bản doanh của “Đoàn phi cơ trinh sát 15”, RS 15 (RS: Reconnaissance Spy) với 25 chiếc phi cơ không người lái Predator (Dã thú) đang tham chiến tại chiến trường Iraq, khoảng gần 200 chiến binh làm việc tại Nellis. Các quân nhân Mỹ tại đây, hàng ngày “lái máy bay chiến đấu mặt trận Iraq” mà họ không ra khỏi nước Mỹ: ở tại Mỹ mà tham gia trận chiến tại Iraq.

Trước chiếc bàn với nhiều phím bấm, với màn hình rộng trước mặt, họ dán mắt vào đó để theo dõi chiến trận tại đất Iraq để khi cần, bấm nút ra lệnh cho phi cơ của họ lái xạ kích vào mục tiêu. Phi cơ của họ lái, các chiếc phi cơ không người lái Predator đang bay dọc ngang trên vòm trời Iraq trong một khoảng không phận được chỉ định. Họ, những “người lái” lại ngồi trên đất Mỹ, cách xa nó đến hơn 12.000 cây số.

Người ta không lạ gì từ ngữ “học hàm thụ”, ngồi ở nhà mà vẫn học hành đỗ đạt bằng cấp mà sẽ cảm thấy lạ lẫm với từ ngữ “chiến đấu tại bàn giấy” như các quân nhân tại Nellis và nhiều căn cứ Mỹ khác. Tại Nellis, các quân nhân Mỹ “tham chiến” 24 giờ mỗi ngày bất kể nam hay nữ không có ngoại lệ, không có ngày lễ, chia làm ba ca trực chiến mỗi ngày, cứ 3 tuần lại đổi giờ làm việc theo lối luân phiên. Họ làm việc thật căng thẳng, gò bó, nguyên tắc.

Nếu muốn rời vị trí đang theo dõi các phi cơ phải xin phép thượng cấp và phải có người thay thế trước khi rời ghế ngồi. Người thay thế phải được biết rõ những gì đã xảy ra, những gì đang cần theo dõi và những gì nghi ngờ sẽ xảy ra, theo kinh nghiệm của người cần rời chỗ làm để người trực thế tiếp tục làm tròn sứ mạng. Dù thay thế nhiệm vụ chừng 5, 10 phút nhưng người nầy phải biết rõ mọi diễn tiến, như lúc bàn giao khi mãn phiên trực. Chính những gò bó, căng thẳng, nguyên tắc… trong suốt phiên trực nầy mà các chiến binh tại Đoàn RS15 ở Nellis gọi phi cơ Predator là “trại giam Shawshank”, tên một nhà tù khắc nghiệt trong “Shawshank Redemption”, một phim bi, thảm kịch (drama) do Hollywood sản xuất năm 1994, với diễn viên gạo cội lừng danh Morgan Freeman thủ vai chính, đã thu được ,341,469 Đô-la trong tuần công chiếu đầu tiên.

Người ta cho rằng các chiến binh làm việc tại những trung tâm hành quân như tại Nellis có hai cuộc sống, vật chất và nội tâm, ảnh hưởng rất nhiều đến con người họ. Khi ngồi làm việc tại nơi nầy, họ là một chiến binh, nghĩa là bắn phá, tàn sát, thấy cảnh đổ nát, chết chóc, hoang tàn. Khi mãn phiên trực, họ trở về là một con người bình thường trong cuộc sống với vợ, chồng, con cái. Đôi khi cảnh bắn giết đó ảnh hưởng đến họ, dằn vặt họ vì chính tay họ đã thực hiện các cảnh bắn giết vừa qua. Tuy nhiên, chiến tranh là như vậy. Không phải chiến đấu tại chiến địa thì phải chiến đấu nơi bàn giấy.



Chiến đấu cơ của Không lực Mỹ.

Người Mỹ đã đưa chiến tranh ra khỏi nước Mỹ nếu không muốn chiến tranh xảy ra như vụ 11-9-2001, hay trước đó, vụ đánh bom vào Trung Tâm Thương Mại Thế Giới (WTC) vào ngày 26-1-1993 (xem hình) làm 6 người chết và hơn 1000 người bị thương, một phần dưới bị phá hủy. Chính phủ Mỹ tránh cái chết cho binh sĩ của họ tại mặt trận nhưng khó có thể bảo vệ họ khỏi những dằn vặt do chiến tranh gây ra, có thể tác động tâm lý để sinh ra bi kịch trong xã-hội, như tâm sự của Đại Tá John Harris, chỉ huy Đoàn RS 15 như sau:

-“Chúng tôi đang đứng bên bờ của sự khủng hoảng”.

Một tối, lúc 10 giờ 30 đêm tại Nellis, Nevada, tức 10 giờ 30 sáng tại Iraq, sau hai giờ quan sát trên màn hình chiếc Pradator bay trên đất Iraq và liên tục gởi hình ảnh nó quay một chiếc xe tải của quân nổi dậy trang bị súng máy, xả đạn vào quân Mỹ. Shannon Roger, một Thiếu Tá Không Quân Mỹ cùng người phụ tá kỹ thuật nhận được lệnh bắn hạ chiếc xe tải nầy. Roger ra lệnh cho thuộc cấp bấm nút khai hỏa chiếc hỏa tiễn Hellfire (Lửa địa nguc) mà chiếc Predator mang theo. Trớ trêu thay, sau khi bấm nút khai hỏa, lại thấy một chiếc xe hơi chạy ngang qua nơi mục tiêu sẽ bị xạ kích. Trong trường hợp nầy, nếu muốn tránh thương vong cho chiếc xe hơi nọ, chuyên viên có thể điều khiển hướng bay của hỏa tiễn Hellfire để cho nổ tại một nơi khác. Lần nầy, Roger ra lệnh “Nhắm vào mục tiêu”. May thay, chiếc xe của quân phiến loạn nổ tung khi chiếc xe hơi vừa đi qua.

Những quyết định cấp thời như vậy của cấp chỉ huy tại Nellis rất ảnh hưởng đến chiến cuộc ở tận Iraq. Người chỉ huy không có nhiều thời gian để suy nghĩ, để chọn lựa hầu ra quyết định tức khắc, như trường hợp vừa kể. Họ biết quyết định của họ rất quan trọng, liên quan đến chiến cuộc, ảnh hưởng đến binh sĩ Mỹ tại trận địa, đến uy tín của quân đội Mỹ tại chiến trường với dân bản địa. Như thế, họ phải sáng suốt khi ban hành lệnh cho thuộc cấp để bấm bàn phím chỉ huy đội phi cơ đang bay trên chiến trường.

E. PHƯƠNG TIỆN “CHIẾN TRANH CÔNG NGHỆ” CỦA QUÂN MỸ.

Không
phải đến bây giờ người Mỹ mới cải tiến các thiết bị cho quân đội mà họ đã có chương trình từ nhiều thập niên trước. Một thiết bị đến tay binh sĩ tại mặt trận phải qua nhiều thời gian, nhiều giai đoạn. Ban đầu, các chiến lược gia quốc phòng và chính phủ cùng nhau bàn bạc, sắp đặt kế-hoạch, phương thức, chiến thuật chiến lược… sao cho phù hợp với nhu cầu của chiến tranh mới. Khi đồng thuận bước đầu, họ mới mới kêu gọi các nhà thầu, các hãng xưởng quốc phòng đến đấu thầu để các hãng thầu nghiên cứu, thí nghiệm. Khi sản phẩm thành công, còn phải qua giai đoạn thử nghiệm. Lúc tất cả mọi chuyện đều hoàn hảo, mới đi vào sản xuất số nhiều để đưa ra chiến trường. Có những chương trình thành công, cũng có chương trình thất bại tuy tốn kém rất nhiều.

Trong cuốn “Chiến binh của Thế kỷ 21” (21st Century soldieres), tác giả cho ta nhiều tài liệu được giới chức quốc phòng cho giải mật về các thiết bị trong thế kỷ nầy, từ hạ tầng (là các chiến binh) đến thượng tầng (các Bộ chỉ huy đầu não) của quân đội Mỹ. Xin giới thiệu một số trang cụ đang được quân đội Mỹ xử dụng:

1. Súng laser chống hỏa tiễn gắn trên phi-cơ.

Danh
từ khoa học “Laser” có nghĩa là một loại máy có khả năng tạo một luồng ánh sáng với cường độ mạnh. Trước kia, với kỹ-thuật còn phôi-thai, các hỏa-tiễn phóng ra thường không chính xác. Khi phát minh ra laser, người Mỹ áp-dụng trong sản-xuất các loại vũ-khí. Các loại hỏa tiễn của Mỹ phóng ra (trên phi-cơ hay giàn phóng) đều được tia sáng laser hướng dẫn tới mục tiêu nên rất chính xác.

Trong kế hoạch “Chiến tranh các vì sao” với nhiệm vụ phòng thủ lãnh thổ khi bị tấn công, Hoa-Kỳ sẽ áp dụng nhiều thành tựu khoa học mới. Mỹ đã thí nghiệm thành công việc dùng hỏa tiển bắn hạ một hỏa tiễn khác đang bay. Ngoài ra, ngành công nghiệp và quốc phòng đã thí nghiệm một kiểu máy bay phản lực Jumbo có trang bị súng laser để bắn hạ hỏa tiển. Với thành tựu nầy sẽ là yếu tố then chốt giúp hệ thống phòng thủ dể dàng bắn hạ hỏa tiển đối phương nhắm vào đất Hoa Kỳ.

Với kế hoạch nầy, các máy bay sẽ bay tuần tiểu tại các vùng quan trọng với cao độ trên 12 ngàn thước (quân đội Mỹ dùng Boeing 747-400). Các hệ thống quan sát sử dụng tia laser sẽ theo dõi tất cả mọi hoạt động trong phạm vi giới hạn, sẽ thông báo mọi diễn tiến của hoạt động khả nghi (hỏa tiễn địch) về máy bay. Khi đã phát giác, nó sẽ theo sát hỏa tiễn trong lúc các hệ thống trên máy bay sẽ tính toán phương hướng, vận-tốc, và các dữ liệu khác của hỏa tiễn để ước tính các chi tiết cần thiết đối phó. Sau một thời gian rất ngắn ước tính, một chùm tia laser sẽ được phóng từ phi-cơ đến hỏa tiễn đang bay trong khoảng từ 3 đến 5 giây đủ sức xuyên thủng lớp vỏ hỏa tiễn để kích nổ để phá hủy nó trên không trung trước khi đến mục tiêu đối phương đã nhắm đến.

Riêng về loại “vũ khí laser” hyperboloid còn kinh khủng hơn nhiều. Nó có thể cắt đứt, phá hũy cả một con tàu, một nhà máy, hệ thống phòng thủ kiên cố, các cơ sở sản-xuất, đường sá, gây xáo trộn môi trường ngoài việc dả thương sinh vật. Trong tương lai, nếu không có đạo luật hạn chế thử nghiệm, sản xuất, xử dụng sẽ gây những nguy hại to lớn không thể kể xiết.

2. Laser dò mìn.

Ngoài
áp dụng laser cho chiến lược phòng thủ nói trên, các nhà khoa học Mỹ tại căn cứ quân sự Waynesville, Missouri vừa sáng chế ra hệ thống dò mìn mới. Hệ thống này sử dụng kỹ thuật laser để phát giác và phá hủy mìn bẫy, bom đạn... nằm rải rác trên chiến trường. Những thứ nầy là mối đe dọa cho mọi người vì có thể nổ bất cứ lúc nào.

Hệ thống dò mìn Zeus của Mỹ gồm một máy phóng laser cực mạnh đặt trên một chiếc xe bọc thép (để giữ an toàn cho quân nhân xử dụng). Người lính ngồi trong xe dùng một cần điều khiển để phóng của chùm laser ra vùng cần dò mìn bẫy. Một chùm laser có công suất từ 500 đến 2.000 Watt có thể xuyên thủng vỏ thép của mìn bẫy, bom đạnlàm cho chúng bùng nổ.

Theo các chuyên gia Mỹ, Zeus có thể phát giác tất cả các bom đạn, mìn bẫy (vỏ nhựa, kim loại) ở khoảng cách từ 25 đến 250 mét. Yếu điểm của Zeus là chùm laser không thể xuyên sâu xuống đất nên Zeus thích hợp cho việc dò bom mìn ở chiến trường chứ chưa thể dò mìn chôn sâu dưới đất được.

3. Robot khám phá mìn:

Để
phác giác mìn bẫy của địch quân gài sẵn, trước đây quân đội Mỹ dùng máy rà mìn, do quân nhân cầm tay để rà trên mặt đất hầu phát giác ra mìn bẫy để toán tháo gỡ chất nổ đến gỡ đi hay phá nổ. Đây là việc làm nguy hiểm cho quân nhân đi rà mìn vì nhiều khi mìn được chôn dưới đất nhưng gài dây trên đường mà mắt thường hay vô ý sẽ không nhận ra, đạp nhắm nó sẽ gây thương vong. Ngày nay, nhiệm vụ nầy được giao cho các robot.

4. Gieo cây để phát giác mìn:

Để
phát giác ra các bãi mìn, người ta dùng máy bay rải trên mặt đất vùng đó một loại thảo mộc, tưới nước cho nó mọc lên rồi nhìn màu lá để biết có mìn hay không. Các chuyện gia biết được khi mìn bẫy chôn dưới đất sẽ sinh ra chất NO2 (nitrogen dioxide). Họ phải tìm loại thảo mộc nào bị ảnh hưởng khi môi trường sinh sống của nó có chất NO2 và chất nầy có ảnh hưởng với nó. Loại thảo mộc được dùng nầy sẽ làm biến đổi lá cây loại nầy từ mầu xanh bình thường trở thành mầu đỏ. Các chuyên gia chỉ cần nhìn vào lá cây sẽ biết vùng đất đó có mìn bẫy hay không để tìm phương thức giải quyết.

5. Vũ khí thời tiết HAARP.

Chương
trình mang tên HAARP (High-frequency Active Aural Research Program: Chương trình nghiên cứu kích hoạt sóng cao tần), là một phần của kế hoạch “Chiến tranh các vì sao” (Star Wars) nằm trong “Hệ thống Phòng Thủ Chiến Lược” (Strategic Defence Initiative: SDI) của Hoa Kỳ, có khả năng chế ngự khí hậu: có thể tạo ra những thay đổi thời tiết tại địa phương được chọn làm mục tiêu, có thể gây ra lũ lụt, bão và động đất.


Một căn cứ HAARP

Chương trình nầyđang hoạt động tại Gokoma, tiểu-bang Alaska, với sự bảo trợ của Không quân và Hải quân Mỹ. HAARP là một trong những loại vũ khí tinh vi mới trong Chiến lược phòng thủ của Mỹ. HAARP gồm một rừng hệ thống antena cực mạnh với 48 cột ăngten cao 22m với dây dợ chằng chịt như để phát sóng radio bình thường vào không trung. có thể “tạo ra những thay đổi có thể kiểm soát được trong tầng điện ly”. Hệ thống nầy tạo một sự thay đổi thời tiết theo ý muốn, là một tiến bộ của nhân loại có thể làm thay đổi thiên-nhiên. Theo một chuyên viên cao cấp phụ trách khu vực này cho hay:

-"Đây là trạm phát sóng siêu mạnh và duy nhất trên thế giới".

Còn tờ Times cho biết:

-“Các phương pháp được sử dụng bao gồm kích hoạt những cơn giông bão, khiến nước của các dòng sông bốc hơi để từ đó xuất hiện mưa, gây ngập lụt ở các mục tiêu trên trái đất mà Mỹ muốn”.

Chương trình này của quân đội Mỹ điều khiển, thực tế là một thứ vũ khí hoàn toàn mới, một chuyên gia cho hay:

-“Đây là một cỗ máy quái quỷ có khả năng sử dụng các hiện tượng thời tiết trong trường hợp có xung đột nổ ra”.


Một radar của HAARP

Nếu có một nhóm người muốn nổi dậy chống chính quyền ở một vùng cách xa chính quyền trung ương, muốn quét sạch chúng, chỉ cần tạo ra một vòi rồng càn quét khu vực đồn trú của nhóm này ngay lập tức, mọi chuyện sẽ “im re” ngay. Một hạm đội (hải quân), một không đoàn (không quân), một quân doàn (lục quân) của địch đang khống chế mọi hoạt động của quân đội Hoa Kỳ, muốn giải nguy, đó là “chuyện nhỏ”. Chỉ cần một mệnh lệnh là có thể tạo ra một trận bão đủ mạnh theo ý muốn để xua đuổi những toán quân kia. Còn nếu quân Mỹ giao tranh với địch trong thời gian dài, muốn chấm dứt, chỉ cần cung cấp cho quân nhân đang tham chiến quân phục đặc biệt rồi tạo ra một trận nóng khủng khiếp (như trận nóng ở châu Âu năm 2003) là đủ để binh lính đối phương kéo cờ trắng.

Được biết sóng điện từ tần số thấp, khi dội về trái đất ở cường độ cao cũng có thể tác động đến não bộ con người, đến điện từ trường của trái đất, làm xáo trộn các hệ thống sinh thái, ảnh hưởng đến thời tiết, khí hậu, nông nghiệp. HAARP là một thứ “vũ khí” hết sức nguy hiểm, có thể thay đổi bộ mặt trái đất.

Chương trình nầy bị các tổ-chức bảo vệ môi-trường ở Mỹ phản đối. Những người đi đầu trong chiến dịch chống HAARP gọi nó như “một công nghệ phát sóng radio siêu mạnh có thể tập trung các tia sóng và làm thủng tầng điện ly” (ozone) (tầng nằm trên cao trong bầu khí quyển, có nhiệm vụ bảo vệ trái đất). Còn Tiến sĩ Rosalie Bertell, một khoa học gia, cho rằng "Các chuyên gia quân đội Mỹ đang làm việc trong những hệ thống thời tiết được xem là vũ khí tiềm năng".



Hệ thống antenna của HAARP

Ngoài ra, chúng ta cần biết là HAARP còn bị các nước “chống Mỹ” khác như Pháp, Đức, Anh,…và cả khối Cộng sản chỉ trích “kịch liệt” vì đây là một thứ “vũ khí tàn sát” nguy hiểm. Các nước khác không đủ tiền bạc để trang trải nhiều thứ chi phí, không đủ nhân viên giỏi điều hành nhất là “địa thế thiết kế” để có được một hệ thống khổng lồ như vậy. Đây cũng là điều dễ hiểu. Để phản hồi, một giới chức của tổ chức nầy đã nói:

-"Thật nực cười hết mức! Mục đích của chúng tôi là nghiên cứu cải thiện truyền thông bằng sóng radio trên toàn hành tinh. Cũng giống như những chiếc radar bình thường, số ăngten của chúng tôi phát sóng nhằm thử độ phản hồi của chúng lên khí quyển trái đất. Vậy thôi".

Cách mặt đất vài trăm kilô mét bầu khí quyển có một tầng điện ly có khả năng phản hồi lại các loại sóng (wave) phát từ mặt đất bay lên. Nhờ có tầng điện ly này, một chương trình phát thanh của một đài phát nào đó mới có thể bay tới các máy của từng gia đình. Những âm thanh đó phát lên không trung không bị mất là vì trong tầng điện ly có chứa nhiều điện tử tự do, một số loại sóng khi lên đây sẽ bị bức màn điện tử này ngăn lại và phản hồi lại trái đất. Tuy nhiên, nếu có quá nhiều sóng mạnh được phát lên tầng khí quyển sẽ làm các điện tử dao động mạnh sẽ làm nhiệt độ trái đất nóng lên.

Người ta nghi rằng loại sóng mà HAARP phát lên không trung mạnh gấp nhiều lần so với một trạm phát sóng FM thông thường. Ở giữa tầng điện ly (khoảng gần 300 km), nhiệt độ khoảng 1.400 độ C. Các nhà nghiên cúu của HAARP cho hay trung tâm phát sóng của họ chỉ cần tập trung lượng sóng phát ra từ 48 cột ăngten vào một khu vực nào đó trên tầng khí quyển đủ để nâng nhiệt độ tại đây lên thêm 50 độ C trong một phút. Những người chống lại dự án này cho rằng nếu nhiệt độ ở tầng điện ly đột ngột thay đổi cao như vậy có thể gây ra bão tố, hiện tượng vòi rồng, mưa gió và đủ loại thiên tai khác.

Người ta đặt nhiều câu hỏi: Mục đích thực sự của dự án này là gì? HAARP sẽ làm mưa tạo gió làm bão chỉ bằng một cái click con chuột của máy computer nếu không là “một thứ vũ khí môi trường cực kỳ lợi hại của Mỹ” thì họ thiết trí để làm gì? Các nhà khí tượng học đặt câu hỏi là tại sao HAARP không quan tâm nghiên cứu các tầng khí quyển khác mà chỉ chú ý vào tầng điện ly? Họ cho rằng người Mỹ biết các tầng khí quyển khác không có nhiều ảnh hưởng tới các hiện tượng thời tiết.



Hệ thống antenna của HAARP

Mối nguy hiểm to lớn khác của HAARP là gây nhiễu, phá sóng, đánh lừa đối phương bằng những hệ thống đặt tại Alaska. Người ta biết khi sóng phát ra từ Alaska nầy sẽ làm dao động mạnh các điện tử tự do trên tầng điện ly, bất kỳ một loại sóng nào khác phóng lên đây sẽ bị lệch hướng, bị phản hồi hoặc bị mất luôn nghĩa là Mỹ có thể làm tê liệt mọi thông tin liên lạc của mọi nước. Trong khi 48 cột antenna đó phát sóng cao tầng, HAARP lại có thể phát ra loại sóng có tần số rất thấp để có thể lan truyền đi bất cứ nơi đâu, các giới chức Mỹ dễ dàng liên lạc được với các ñơn vị quân đội Mỹ, trên đất, trên biển hay trong lòng đại dương.

Tưởng cũng cần nên biết thêm, Mỹ có lần đã sử dụng loại vũ khí này nhưng mới chỉ ở mức độ thấp và trong vòng bí mật. Mới đây, trong một báo cáo đã gây sửng sốt giới khoa học thế giới vào năm 1996 là không lực Mỹ từng "có ý định" tạo ra những trận cuồng phong nhằm xua đuổi các hạm đội của đối phương trong thời kỳ trước đó. Vì thế, người ta cho rằng HAARP nằm trong dự án vừa phòng thủ vừa tấn công của Mỹ.

6. Packbot, robot chiến trường.

Trên
mặt trận Afghanistan, Quân đội Mỹ đưa robot có tên Packbot vào chiến trường, đảm nhiệm những sứ mệnh nguy hiểm thay con người. Packbot được giao cho Đại úy Robert Merritt, người chỉ-huy đơn vị lục quân tại căn cứ Bagram, Afghanistan điều khiển. Nó chuyên thám thính, đánh hơi những khu vực nguy hiểm và gửi về căn cứ các bức ảnh, tin tức. Ngoài ra, robot còn có nhiệm vụ kiểm soát các bãi chiến trường sau trận chiến, thám sát các tòa nhà, hang động. Mỗi chiếc xe robot Packbot trị giá 45.000 Mỹ-kim.

Các nhà khoa học Mỹ dự trù sẽ cải cách robot Packbot này bằng cách lắp thêm camera, súng, ống và lựu đạn cho nó để có thể được sử dụng vào nhiều việc khác: nhiệm vụ của một binh sĩ hoặc như một chuyên viên để thám sát địa thế, theo dõi, báo cáo chất độc tại chiến trường.

7. Robot Tìm Địch Quân.

Cũng
trên mặt trận Afghanistan, lần đầu tiên trong quân sử, Quân lực Mỹ đưa rô bô vào chiến trường. Ngày 29-7-2002, Sư Đòan 82 Không Kỵ Mỹ, căn cứ tại Fort Bragg, đã sử dụng robot Hermes để len-lỏi vào các hang động ở Afghanistan để lục soát tìm người, khí tài của quân khủng bố al Qaeda. Robot Hermes dài 3 feet, nặng 43 lbs, di chuyển nhờ hai bánh kéo bằng dây xích như bánh xe tăng màu xanh lục.

Trên thân robot Hermes được đặt hai máy camera. Những hình ảnh quay được sẽ được truyền bằng sóng điện từ cho người điều khiển ở ngoài hang. Bánh xích của robot có thể vượt qua mọi chướng ngại, có thể len lỏi qua những hóc kẹt rất nhỏ mà quân nhân hay quân khuyển không lọt qua được, tránh được hơi độc, chất độc có thể gây thương vong cho binh sĩ. Robot Hermes còn dùng để tiền sát hay rà mìn bẫy, giúp cho binh sĩ tránh khỏi những cuộc phục kích hay bị mìn bẫy sát thương. Với mìn bẫy gài trên cao, robot cũng phát giác được nhờ máy camera.

Mỗi robot Hermes có thể mang theo 12 camera, nhiều súng tự động hay phóng lựu, được điều khiển từ xa. Robot Hermes có giá 40.000 Mỹ kim mỗi chiếc. Chính nhờ những chiếc “lính robot” nầy đã gây thiệt hại cho quân Taliban rất nhiều, làm cho cuộc chiến tiêu diệt Taliban sớm kết thúc, đỡ thiệt hại nhân mạng cho quân Mỹ rất nhiều mà theo dự trù, con số tổn thất khá cao.

8. Súng laser, bom vi-ba.

Đây
là loại vũ-khí chưa được xử dụng, là súng hay bom khi nổ không có miểng, đả thương con người bằng tia laser và các sóng vi-ba, không làm chết người mà chỉ gây thương tật suốt đời. Tia laser sẽ làm mù mắt, sóng vi-ba sẽ làm phỏng da trầm-trọng, nước trong cơ thể con người sẽ bị nung sôi, địch quân sẽ cảm thấy nóng nảy, khó chịu tột độ cho dù núp, trốn bất cứ nơi đâu. Đây là loại vũ-khí nguy hiểm vì nó không làm chết ngay địch quân mà gây thương tật vĩnh viễn, tạo một gánh nặng tài chánh (phải nuôi nấng thương binh suốt đời) và tâm-lý (sợ sệt) cho quốc gia địch. Trước đây, loại mìn “con cóc” cũng không làm chết người (khi đạp phải, nó nhày lên ngang gối mới nổ làm cho địch quân gãy chân, phải cưa chân, thành phế nhân) nhưng để lại cho xã hội gánh nặng từ các thương binh nầy.

Bom súng laser nầy bị các tổ chức nhân quyền khắp nơi phản đối kịch liệt nên các chuyên gia quân sự Anh Mỹ e ngại chưa cho mang ra xử dụng. Trước đó, các nhà bảo vệ nhân quyền đã nhờ đến luật-pháp quốc-tế để có biện pháp chế tài loại vũ khí nầy. Tuy vậy, nhờ kẻ hở của luật pháp: “trong một quyết-định quốc tế vào ngày 30-10-2000 cho phép ứng-dụng tia sáng laser để chế tạo loại vũ khí “không giết người” (non-lethal)” nên các chuyên gia Anh Mỹ lợi-dụng kẻ hở của luật trên để chế tạo loại vũ-khí đặc-biệt nầy.

9. Phi Cơ Không Ngưới Lái.

Một
điều cần biết khác, đó là các phương tiện, các trang cụ “không người lái” khác như phi cơ không người lái, tàu ngầm không người lái… có thể thi hành những nhiệm vụ như những phi cơ, tàu chiến có người lái để thi hành các nhiệm vụ đặc biệt do nhiều lý do mà Bộ chỉ huy quyết định phương tiện nào nên dùng tùy theo từng chiến trường, từng mục tiêu.

Ngày nay, phi cơ không người lái là một trong những phương tiện tham chiến chủ lực của Hoa Kỳ. Qua cuộc chiến tại Afghanistan, khả năng của Pradator được các nhà chuyên môn đánh giá cao. Thứ nhất, an toàn cho sinh mạng binh sĩ Mỹ. Về giá thành, tổn phí một chiếc Pradator khoảng từ 4 triệu Đô la, quá rẻ so với chiếc F-22 của Mỹ giá 1 triệu mà F-22 lại cần phi công để lái. Chiếc F-22 đầu tiên được chuyến giao cho Không Quân Mỹ tại Căn cứ Nellis vào ngày 14-01-2003.

Hiện nay, F-22 Raptor là loại chiến đấu cơ được đánh giá là tối tân nhất bởi tính đa năng, đa hiệu của nó. Vào lúc nầy, trong các kho của Mỹ có đến hàng ngàn chiếc máy bay không người lái, đủ kiểu, đủ cỡ, từ loại nhỏ xíu nằm trong lòng bàn tay (là loại thám thính) đến loại lớn như một máy bay dân dụng cỡ trung bình, trong đó Global Hawk là một trong vài loại hữu hiệu nhất.

Global Hawk được các kỹ-sư và chuyên-viên thuộc Trung tâm Hàng không Ryan, thuộc tập-đoàn Grumman Northrop Corporation của Mỹ thiết kế và chế-tạo. Chi phí mỗi chiếc máy bay nầy từ 10 đến 20 triệu USD tùy theo các trang-bị phụ. Global Hawk hoạt động do thám trên một vùng diện tích rộng đến 137.000 km2, vẫy vùng liên tục trên không trung lâu đến 36 giờ đồng hồ. Với các thiết-bị sẵn có, nó có thể nghe trộm đường truyền tín hiệu, bằng radar hay sóng hồng ngoại, nó đánh dấu các mục tiêu, sau đó ghi hình các hoạt động dưới mặt đất trong khu-vực hoạt-động. Quân đội Mỹ sử dụng Global Hawk để mục đích phát giác, phân loại, theo-dõi và giám sát đối phương từ xa mà vẫn rõ ràng, các tin tức ghi nhận từ mục tiêu đang hoạt động.

Tuy không cần người lái nhưng loại phi cơ nầy hoạt động rất đắc lực. Chỉ huy phó của Osama bin Laden là Mohammed Atef cùng với hàng chục tên tay chân thân tín của Atef đã bị phi cơ không người lái Predator giết chết. Gần đây, một phi-cơ không người lái đã giết chết Qaed Salim Sinyan al-Harthi vào ngày 11/2/2002 tại Yemen. Tên nầy là trưởng nhóm Al Qaeda tại Yemen, nghi can chính trong vụ tấn công vào chiếc Khu trục hạm Mỹ USS Cole.

Những chiếc phi cơ như vậy đã giúp quân Mỹ rất nhiều. Người ta dự đoán, chỉ trong vòng 20 năm nữa, loại máy bay nầy sẽ thay thế cho nhiều loại máy bay cần người điều khiển.

10. Phi cơ siêu thanh:

Việc
di chuyển từ điểm này đến điểm khác trên thế giới, hoặc bay thẳng lên Trạm Quốc tế Alpha mà chỉ mất 2 giờ sẽ không còn là chuyện viễn tưởng nữa. Cơ quan Hàng không Vũ trụ Mỹ (NASA) sắp đưa ra mô hình phi cơ siêu thanh, có thể biến trở ngại không gian thành chuyện dễ dàng. Chẳng hạn thế hệ siêu thanh X-43 có thể bay cao đến 33 cây số với vận tốc độ 6.000 km/h, tức là vượt quá Mach 5 (gấp 5 lần vận tốc âm thanh).

* Với chiếc X-43A có gắn động cơ đặc biệt, được gọi là "động cơ tổng hợp", bởi nó kết hợp nguyên lý động cơ của máy bay phản lực và hỏa tiễn, lấy ôxy trực tiếp từ không khí nên có hiệu suất cao gấp 5 đến 10 lần hiệu suất của động cơ phản lực thường. Động cơ của X-43A chạy bằng hydro lỏng, có thể đạt tốc độ Mach 7, thậm chí lên tới Mach 10 (gấp 7 hay 10 vận tốc âm thanh (300.0000 km/s).

* X-43 C: Động cơ hoạt động theo nguyên lý động cơ máy bay siêu thanh của Không lực Hoa Kỳ, tốc độ tối đa của X-43C sẽ là từ Mach 5 đến Mach 7.

* Phi cơ siêu thanh lớn nhất của NASA là X-43B, là loại máy bay tổng hợp tất cả lợi thế của hai loại Hyper-X nói trên.

11. Đạn dính.

Một
nhóm sinh viên cơ khí của trường Đại Học Florida và Công ty Quốc phòng Lockheed Martin đã nghiên cứu để làm ra một loại “đạn dính” được đặt tên là SPLAT (Sticky Polymer Lethal Agent Tag). Bên trong SPLAT là các máy cảm biến điện tử nhỏ, có nhiều chức năng như dò thuốc nổ và ghi âm thanh có thể giúp binh sĩ tìm kiếm những quả bom bị che dấu. Máy truyền phát tín hiệu dùng pin nhỏ như pin đồng hồ cung cấp năng lượng, chuyển dữ liệu trở lại người bắn ra thông qua một ăng-ten dây nằm sau viên đạn. Điểm đặc biệt của SPLAT là vật liệu polymer dính nằm ở đầu viên đạn. Theo ông Leslie Kramer, Giám đốc Đơn vị Kiểm soát Hỏa tiễn và Hoả lực tại công ty Lockheed Martin cho biết đó là vật liệu để bảo vệ dây cáp mà ngành truyền hình Cable thường sử dụng. Ông cho hay:

-''Vật liệu giống như... dịch mũi của người, có thể dính vào hầu hết mọi thứ''.

Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ các kỹ thuật khác. Tại Đại Học Florida có một giáo sư người Việt Nam, hiện là Giáo sư Cơ khí Hàng không, ông Vũ Quốc Lộc cho biết các sinh viên đã vượt qua một số trở ngại để đi đến thành công nầy''.Toàn bộ hệ thống, bao gồm cả súng bắn, trị giá chưa tới 1.000 USD. Công ty Lockheed Martin đã đưa dự án trở lại phòng thí nghiệm tại Orlando nhằm tiếp tục nghiên cứu thêm. Theo họ, bắn một viên SPLAT vào một đống rác nghi ngờ, các máy cảm biến hoá chất sẽ xác định xem có thuốc nổ trong đó hay không.


Đạn dính

Nếu dữ liệu truyền về cho thấy không có đạn dược có hại, có thể lấy lại viên đạn để tái sử dụng. Sau nầy có thể được nhét vào bên trong nhiều thiết bị điện tử khác (như máy đo gia tốc, hệ thống cơ khí điện tử) vào bên trong làm cho SPLAT như máy thu âm thanh, như thiết bị phát hiện vũ khí hoá học. Kramer cho biết: ''Chẳng khó gì khi khai thác mọi khả năng của đạn dính. Theo các chuyên viên, gắng làm sao có thể sử đụng dạn dính SPLAT với các vũ khí thông thường và sẽ hữu ích trong cuộc chiến chống khủng bố.

12. Hệ thống Mắt Thần của lính Mỹ.

Bộ
Quốc Phòng đang hoàn tất một dự án khoảng 5 tỷ Mỹ kim ban đầu để thiết lập một hệ thống Internet cho lính Mỹ khi lâm trận. Hiện nay Mỹ đã có cả một hệ thống phát và thu thiên lý nhĩ, thiên lý nhãn trị giá 25 tỷ đô la, do vệ tinh nhân tạo thực hiện để làm nhiệm vụ trinh sát, do thám, truyền tin, giúp Bộ chỉ huy chỉ thị các phi cơ không người lái làm nhiệm vụ. Đây là một chương trình khả thi. Bộ Quốc Phòng và Cố vấn Khoa học Kỹ thuật của Bộ là ông Vint Clef tin-tưởng rằng đó là một "viễn tượng" chớ không phải là "ảo tưỏng" như phim Star Wars.

Công ty Locheed Martin Inc. cho biết Công ty đã dự tưởng để thành lập một “hệ thống mắt thần Internet” để tập trung những hoạt động quân sự và tình báo hầu đáp ứng cho nhu cầu của Hoa Kỳ trong thời gian tới. Nếu thành hiện thực, hệ thống Internet này sẽ giúp các Tư Lệnh chiến trưòng, các giới chức thẫm quyền ở các Bộ Tư lịnh, Bộ Quốc Phòng, Tổng Tham Mưu trưởng đều có "con mắt như của Thượng Đế" để thấy hết những gì đang diễn tiến ở các chiến trận trên khắp thế giới. Với nhân, tài, vật lực như Mỹ đang có, chắc chắn họ sẽ thực hiện được dự họ án mong muốn.

13. Dự án chiến tranh toàn cầu.

Ngoài
những phương tiện chiến tranh đã chính thức công bố ra, Mỹ đang nghiên cứu các loại vũ khí mới. Tuy chính phủ Mỹ chưa thừa nhận nhưng những tin tức tiết lộ cho hay Mỹ đang chuẩn bị “chiến lược tấn công toàn cầu”, một chiến lược còn trong vòng bí mật, trang bị loại vũ khí tấn công và tự vệ trong không gian vô cùng lợi hại. Chiến lược nầy dùng một tàu không gian chở những vũ khí dẫn đường chính xác. Theo lời Tư-Lệnh Không quân Mỹ, Tướng Lance Lord tuyên bố tại Quốc hội Mỹ: “Kế hoạch tấn công toàn cầu có khả năng phá hủy các trung tâm chỉ huy và căn cứ hỏa tiễn ở khắp mọi nơi trên thế giới”.

Theo tài liệu cho biết, vũ khí của kế hoạch nầy có thể tấn công trong phạm vi nửa vòng trái đất chỉ trong vòng 45 phút bằng những loại vũ khí mới, vệ tinh mới, cách tấn công mới, chi phí vô cùng lớn. Tuy vậy, nếu thấy cần thiết, ngân sách Mỹ cũng có thể đáp ứng được đòi hỏi.

Sau hơn 20 năm xây dụng kế hoạch phòng thủ hỏa tiễn đạn đạo tốn kém hàng trăm tỷ Đô la, trong một chừng mực nào đó đã có được thành công, ít nhất, nó cũng là tiền đề, là những thí nghiệm bổ ích cho các thành tựu sau nầy. Không lực Mỹ hiện đã có kho vũ khí chiến lược trong không gian. Theo tiết lộ, hỏa tiễn XSS-11 của Không lực Mỹ có thừa khả năng vô hiệu hóa hay tiêu diệt các vệ-tinh liên lạc, do thám của đối phương hiện diện trong không trung khi có lệnh.

Ngoài ra, loại vũ khí mang tên “Những cây gậy của Chúa” có thể tấn công mục tiêu địch với vận-tốc 11.500km/giờ. Một loại vũ khí bí mật khác có khả năng làm phóng tia Laser ra từ các vệ tinh hay khí cầu, hướng các tia nầy đến các mục tiêu của địch trên toàn cầu qua hệ thống định vị toàn cầu GPS. Các loại vũ khí nầy rất đắt, vào khoảng từ 220 tỷ đến 1.000 tỷ USD.

-“Tuy đắt tiền nhưng đối với quan niệm thực tiễn của Mỹ, việc đầu tư để có được những loại vũ khí chiếm thế thượng phong như vậy không phải là điều khó thực hiện với Mỹ”, theo lời một viên chức cao cấp của Mỹ thố lộ trên một tạp chí khoa học.

Như vậy, rõ ràng là chiếm lĩnh được không gian cả là một vấn đề quan trọng, là mục tiêu hàng đầu của nhiều quốc gia, không riêng gì Hoa-Kỳ đang theo đuổi.

Ngoài ra, theo thông báo chính thức của NASA, họ vừa phóng một vệ tinh mới và tối tân nhất vào không gian, ngoài nhiệm riêng của nó, vệ tinh nầy còn giúp “hệ thống 28 vệ tinh hiện hữu” của Mỹ trên không trung hoạt động hữu-hiệu thêm. Vệ tinh nầy được phóng vào ngày 26-9-2005 bằng hỏa tiễn Boeing Delta II, trị giá 75 triệu USD. Khi vào quỹ đạo, nó sẽ tự mở các tấm pin mặt trời, mở antenna ra và khai hỏa một hỏa tiển nhỏ bên sau để đẩy nó vào quỹ đạo cuối cùng (khoảng 18.000 km) mà NASA ấn định. Trong hệ thống 28 vệ tinh tối tân nhất hiện hữu của Mỹ đang bay trong vũ-trụ, có 8 vệ tinh GPS-IIR do Lookheed Martin chế tạo, đảm-nhiệm nhiều nhiệm-vụ quan trọng, nhất là giúp quân đội Mỹ trên toàn cầu trong các hoạt động quân sự.

Loại vệ tinh nầy có nhiều nhiệm vụ bí mật, tín hiệu nó phát ra rất mạnh, hoạt động nhờ vào lấy điện năng từ mặt trời. Nó giải quyết tình trạng tắt nghẽn tín hiệu GPS trên mọi phương tiện cần tín hiệu từ đường bộ, máy bay, tàu thủy; cải thiện thêm độ chính xác của các loại vũ khí thông minh xử dụng hệ thống định vị toàn cầu GPS của quân đội Mỹ; giảm thiểu lỗi định-vị do lớp hạt tích-điện của khí quyển trái đất gây ra.

Theo dự trù, NASA sẽ phóng thêm 3 vệ tinh GPS-IIR tối tân hơn để hỗ trợ và tăng cường cho hệ thống đang hoạt động. Sau đó, cũng theo NASA, vệ tinh đầu tiên trong 12 vệ tinh của thế-hệ mới GPS-IIF (cũng do hãng Boeing chế tạo) sẽ được đưa vào không gian, nằm trong kế hoạch “chiến lược không gian” mới của Hoa Kỳ trong vòng vài năm tới.

Hình bên cho chúng ta thấy hệ thống vệ tinh phủ sóng lên nhau trong không trung để giúp các loại phương tiện (phi cơ, bộ binh, tàu thủy) biết chính xác vị trí địch quân, vị trí quân bạn, khoảng cách, địa hình địa vật hầu xử dụng loại vũ khí nào thích nghi cho chiến trường.

Ngoài các phương tiện chiến tranh vừa kể, Hoa Kỳ đã và đang nghiên cứu các sản phẩm mới. Xin sơ lược vài phát minh, phát kiến điển hình:

14. Bánh xe mới:

Để
giải quyết trở ngại cho các quân xa khi bánh xe bị bể vỏ không xử dụng được, công ty Resilient Technologies của Mỹ vừa phát minh một lọai lốp xe không cần bơm hơi nên không còn phải lo bị nổ lốp! Bánh xe được làm bằng một lớp vỏ bánh và phần ruột bánh xe trước đây được thay bằng phần tổ ong với lọai cao su mềm chắc có tác dụng nhún như một chiếc bánh xe được bơm hơi. Lọai vỏ xe nầy được Ngũ Giác Đài đặt mua cho loại quân xa Humvees. Jim Dobbs, phát ngôn viên của Resilient Technologies đã trả lời cho Washingtonpost khi được hỏi:

-”Với một chiếc xe, bạn có thể trang bị đủ máy móc tiện nghi thật tuyệt, nhưng rồi khi lốp xe bị nổ, xe nằm ở bên lề đường, thì tất cả đều ngưng lại hết”.

15. Đũa thần giám sát an ninh hàng không:

Công
ty Công nghệ TeraView mới sáng chế ra một hệ thống dò được các vũ khí, kim loại cũng như phi kim loại, bằng cách sử dụng ánh sáng TeraHertz. Ánh sáng TeraHertz nằm giữa sóng cực ngắn (shortest wave) và tia hồng ngoại trong quang phổ điện từ. Nó là vùng sóng radio và quang phổ ánh sáng cuối cùng. Ánh sáng TeraHertz rất an toàn đối với con người, không giống tia X phải sử dụng “bức xạ ion hoá” có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người. TeraHertz có thể đi xuyên vải vóc, giấy, plastic,… để dò thuốc nổ, vũ khí kim loại, gốm, chất dẻo hay các chất có thể gây tử vong. Công nghệ teraHertz được ví như một chiếc đũa thần, có tiềm năng cao, có thể vượt qua những hạn chế của các kỹ thuật giám sát an ninh hiện nay.

16 Thổi hơi dò vũ khí:

Đây
là một phát minh tân kỳ, gồm hệ thống thổi không khí vào hành khách, đồ đạc, hành lý… để dò thuốc nổ, vũ khí… . Nghiên cứu nầy hiện được thử nghiệm tại một nhà ga của một phi trường tại Mỹ được dấu tên, cũng là “sản phẩm của công nghệ” như đề tài nầy.

17. Phi đạn Hellfire (Lửa Hỏa Ngục):

Tên
đầy đủ là AGM-114N Metal Augmented Charge Hellfire, một loại phi đạn hơi ngạt. Phi đạn này sử dụng loại đầu đạn đặc biệt, khi nổ, phóng ra một làn sóng hơi ngạt chết người mà không phá vỡ các cơ sở vật chất như dinh thự, hầm hố, công sự... Ngũ Giác Đài đã chi .8 triệu mỹ kim để chế tạo loại đầu đạn nầy sau khi nhận được yêu cầu của Thủy Quân Lục Chiến, xin một loại vũ khí hiệu quả để đối đầu với địch ẩn trốn trong những nơi chật hẹp, công sự, hầm hố, hoặc những gian phòng bên trong một cao ốc. Một chuyên gia quân sự Mỹ cho biết:

-“Loại hỏa tiễn mới này có thể dời đi nguyên lầu của một ngôi nhà mà không làm hại đến các tầng ở trên, có thể vươn vào các ngõ ngách, đánh quân thù trốn trong hang động, hầm hoặc các loại kiến trúc kiên cố khác."

Để đặt một đầu đạn có máy tầm nhiệt trên hỏa tiễn Hellfire, phải tốn ,000 mỹ kim ngoài phí tổn ,000 mỹ kim của một hỏa tiễn thông thường. Cựu Bộ Trưởng Rumsfeld đã phải ra điều trần trước tiểu ban Chuẩn Chi Thượng Viện nhằm ủng hộ dự thảo 0 triệu mỹ kim để nghiên cứu loại đầu đạn nầy.

18. Chất dẻo may áo chống phóng xạ:

Trước
nay, người ta dùng chì để bọc các loại áo chống phóng xạ. Chì là kim loại nặng: mỗi nguyên tử chì có nhiều điện tử quay quanh một nhân, sẽ tạo thành các "đám mây" dày. Những "đám mây điện tử" này có thể giữ năng lượng của tia phóng xạ, hoặc ngăn chặn để nó không đi qua được.

Các nhà khoa học Mỹ của công ty Radiation Shield Technologies ở Miami phát minh ra loại áo chống phóng xạ làm từ polyethylen và một loại chất dẻo đặc biệt khác. Nó có thể ngăn được các tia alpha, beta, tia X và tia gamma. Các nhà khoa học đã thay thế chì bằng chất Demron, một loại chất dẻo cao phân tử, được tổng hợp từ polyethylen và một loại chất dẻo đặc biệt khác có gốc tên là PVC. Các phân tử của Demron cũng có những đám mây điện tử lớn bao quanh nhân, khiến tia phóng xạ không đi qua được, sẽ ngăn chặn phóng xạ, tương tự như chì. Một chiếc áo loại này nặng khoảng 3 kg so với 8-10 kg như các loại áo bọc chì.

19. Bom N.

Để
tránh thảm họa như 2 quả bom nguyên tử ném xuống Hiroshima và Nagasaki các nhà nghiên cứu Mỹ thí nghiệm và chế tạo bom N. Bom N (neutron), còn gọi là Vũ khí gia tăng phóng xạ ERW, là một loại vũ khí sử dụng nhiệt hạch để tạo ra một vụ nổ nhỏ, nhưng sản xuất một khối lượng lớn tia phóng xạ gây thương vong. Bom N do ông Sam Cohen phát minh vào năm 1958. Ông tách bỏ các vỏ Uranium trong bom khinh khí (bom H hay bom Hydro) để các tia neutron phát tán xa hơn để có thể xuyên qua những lớp thép dày hay những công trình kiên cố.

Nhưng Tổng thống John Kennedy chống lại việc sản xuất bom N rồi sau đó là quyết định của Tổng thống Jimmy Carter vào đầu tháng 4 năm 1978. Tuy nhiên, Tổng Thống Ronald Reagan quyết định thay đổi chính sách của 2 vị tiền nhiệm. Reagan ra lệnh cho tái sản xuất các đầu đạn có chứa neutron vào năm 1981để trang bị cho các hỏa tiễn Lance và đạn pháo binh. Các tư lệnh quân đội Mỹ tin tưởng vào loại vũ khí nầy nhưng nhiều chính trị gia thiên tả và mỵ dân ở Mỹ và các nước Tây Âu thì chống lại vì lý do chống Mỹ. Quốc hội Mỹ bỏ phiếu về chương trình phát triển vũ khí cũng như các khí tài quân sự, trong đó có chương trình hạt nhân mới sau khi xem xét ngân sách quốc phòng. Bộ Quốc Phòng muốn tiến hành nhiều chương trình nhưng vấn đề ngân sách là một trở ngại lớn.

20. Các loại bom, hỏa tiễn mới:

Hiện
nay, Mỹ xử dụng nhiều loại bom tối tân hơn các loại bom cổ điển nhiều. Các loại bom ngày nay có sức công phá khủng phiếp, độ chính xác cao để tránh gây thương vong cho nhưng đối tượng không phải là mục tiêu, tiện lợi khi di chuyển, được trang bị cho nhiều loại phương tiện để phóng ra, tiêu diệt nhiều loại mục tiêu. Ta có thể kể:

- Hỏa tiễn Tomahawk BGM-109: Dài 5,5 m, cánh ngắn, động cơ tua bin phản lực, bay xa 1.609 km với vận tốc k885 km/giờ trên độ cao từ 30m đến 95 m, được hướng dẫn bởi vệ tinh, phóng đi từ tàu chiến, tàu ngầm, giàn phóng, máy bay.

- Hỏa tiễn địa không tầm xa AGM-158 (JASSM) có biệt hiệu Jazz'em: Dài 4,3m, tầm bay trên 370km, cánh có thể gấp được, được trang bị trên chiến đấu cơ, oanh tạc cơ của Không quân, Hải quân và TQLC. Nó có thể được gắn đầu đạn 453,6 kg để phá huỷ các công sự kiên cố nhất hay hầm ngầm trong lòng đất.

- Bom tấn công trực tiếp Joint Direct Attack Munition (JDAM), một loại bom “thông-minh”: nặng 907,2 kg, có cánh dẫn hướng ở phía đuôi, được hệ thống dẫn đường nhận tín hiệu trực tiếp từ vệ tinh để điều chỉnh và chỉ thị, không bị thời tiết (như mây, khói, bão cát, gió lốc tạo ra bui mờ) hay địch quân tạo nên các màn khói để phi công ném bom không thấy mục tiêu. JDAM cũ gồm 4 loại bom: GBU-29, GBU-30, GBU-31 và GBU-32.


Bom GBU-24 phá các công sự, hầm ngầm tại Afghanistan.

- Bom Paveway-3 GBU-24 có laser dẫn hướng: nặng 907,2 kg, có cánh điều khiển ở cả 2 đầu, được thiết kế để tiêu diệt các công sự bằng sắt thép, bê tông. Bom được dẫn đường bằng tia laser từ máy bay hoặc các bộ chỉ huy hành quân.

- Bom phá công sự GBU-28 có laser chỉ đường: nặng 2.086 kg, do laser dẫn hướng, bom có thể diệt mục tiêu nằm sâu trong lòng đất.

(Xem tiếp phần 2)

Lê Chánh Thiêm.
San Jose, 2-2008, có hiệu đính.

Chú thích:

(1) Các tài liệu mật và quan trọng của Mỹ được Cơ quan Lưu trữ an ninh quốc gia Mỹ (National Security Archive) quản thủ. Cơ quan nầy chỉ công bố tài liệu nào hết thời hạn bảo mật và phổ biến như thế nào, dựa theo điều khoản "Tự do thông tin" của luật pháp Liên bang Mỹ đã ban hành.

(2) Mỗi chiến đoàn (battle group) của Hải Quân Mỹ thường thì có 1 Hàng-không Mẫu-hạm, một số Khu-trục-hạm, Hộ-tống-hạm, Tuần-dương-hạm, Khuc-trục-hạm hạng nhe, tàu ngầm, tàu tiếp tế, và phi cơ cơ-hữu trên các HKMH và quân nhân tăng phái, có thể là LLĐB (Special forces), BĐQ, TQLC, Task Force Sword ...