Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2011

Hệ thống phòng không của các nước trên thế giới (rada, tên lửa, pháo cao xạ)

S-400 Triumf (SA-21 Growler):

Một số thông số sơ bộ:
- Xe chuyên chở kiêm bệ phóng: Maz 7910, 8x8.
- Loại tên lửa: 9M96E hoặc 9M96E2 và 9M82/83M.
- Tầm bắn: 30 - 400km.
Tổ hợp S-400 Triumf (NATO đặt tên SA-21 Growler) là phiên bản nâng cấp từ hệ thống tên lửa đất đối không lưỡng tầm (tầm trung và tầm xa) đất đối không S-300. S-400 thuộc thế hệ vũ khí phòng thủ tên lửa đường đạn và phòng không thế hệ 4+ do tập đoàn Almaz-Antey AD Concern phát triển. Hệ thống S-400 tích hợp những công nghệ mới nhất và khả năng chống nhiễu tốt, có nhiều tính năng kỹ chiến thuật vượt trội hẳn so với các phiên bản S-300 trước đó như S-300PMU1, S-300PMU2, S-300V… với tầm bắn hiệu quả lớn gấp 2 lần hệ thống tên lửa Patriot MIM-104 của Mỹ.
Hệ thống S-400 gồm 1 xe chỉ huy và điều khiển trung tâm, trang bị radar mạng pha nhiều chế độ và 8 xe phóng. Mỗi xe phóng có thể mang 4 ống phóng tiêu chuẩn 9M96E/E2 hoặc 48N6E/E2. Ở giai đoạn đầu và giai đoạn giữa tên lửa được dẫn bằng bằng thiết bị hiệu chỉnh, chỉ huy vô tuyến, ở giai đoạn cuối có thể lựa chọn chế độ dẫn phù hợp cho mỗi tên lửa và với mỗi mục tiêu.
Hệ thống S-400 bắt đầu được thử nghiệm năm 1999, hoàn thiện vào năm 2000 tại căn cứ Kasputin Yar. Hệ thống tên lửa đất đối không S-400 Triumf có thể phát hiện mục tiêu bằng Radar các loại 64N6, 76N6 (tầm 600km) và tiêu diệt được các mục tiêu trên không ở cự ly cách xa 250 dặm (400 km) như vật thể bay ko người lái, máy bay chiến đấu siêu âm và tàng hình, các loại máy bay ném bom - chiến đấu, tên lửa hành trình và tên lửa đạn đạo. S-400 Triumf có thể hạ được các loại tên lửa chiến lược có tầm bắn tới 3.500km.

Hệ thống Buk-M1-2 (SA-17 GRIZZLY):

Những thông số chính:1. Đối với mục tiêu bay có diện tích phản xạ (cỡ vừa như máy bay F-15,F16): Tầm bắn hiệu quả tối thiểu/tối đa: 3/45km. Tầm cao hiệu quả tối thiểu/tối đa: 0.015/25km
2. Đối với tên lửa đường đạn chiến thuật: Tầm bắn hiệu quả: tới 20km,tầm cao hiệu quả tối thiểu/tối đa: 2/16km
3-Đối với tên lửa hành trình phóng từ trên không ALCM: Tầm bắn hiệu quả: 30-35km
4. Đối với mục tiêu nổi trên mặt nước cỡ tàu khu trục:Tầm bắn hiệu quả tối thiểu/tối đa: 3/25km
5. Đối với các mục tiêu cố định trên mặt đất như máy bay đang đỗ, các bệ phóng và sở chỉ huy cỡ lớn: Tầm bắn hiệu quả: 10-15km
Tên lửa 9M317:
- Tổng trọng lượng: 710kg
- Dài: 5,55m
- Đường kính: 0,40m
- Sải cánh: 1,10m
- Đầu đạn tiêu chuẩn: 70kg
- Tầm bắn tối thiểu/tối đa: 3/48km
- Tầm cao tối thiểu/tối đa: 15/25.00m
- Tốc độ tối đa: 4.320km/h
Mỗi hệ thống bao gồm: 1 xe chỉ huy; 1 trạm trinh sát/bắt bám và điều khiển đặt trên xe; 6 xe phóng, mỗi xe mang 4 quả tên lửa sẵn sàng phóng và 4 quả dự trữ; 3 xe tiếp đạn. BUK-M1-2 sử dụng 1 radar trinh sát 9S117M1 Kupol-2 Snow Drift, tầm phát hiện 100km; 1 radar bắt bám mục tiêu 9S35M2 Fire Dome hoạt động trong dải sóng H/I tầm hoạt động 120km. BUK-M1-2 có thể cùng lúc kiểm soát 75 mục tiêu, cung cấp các thông số cụ thể về 15 mục tiêu nguy hiểm nhất. Hệ thống có thể tiêu diệt các mục tiêu bay có tốc độ tối đa 3.600km/h và chỉ mất 5 phút để triển khai chiến đấu hoặc rút khỏi trận địa sau khi phóng.
Đây là hệ thống tên lửa phòng không cơ động tự hành được phát triển trên cơ sở hệ thống Buk (SA-11 GADLY) có thể được trang bị cho lực lượng phòng không/phòng không lục quân và lực lượng bảo vệ bờ biển. Nó không những tiêu diệt được các máy bay chiến thuật có khả năng cơ động cao, máy bay chiến lược, trực thăng, tên lửa hành trình mà còn tiêu diệt được cả các loại tàu chiến, các mục tiêu cố định trên mặt đất và tên lửa không đối đất. BUK-M1-2 có khả năng tác chiến trong môi trường bị nhiễu nặng và tránh được hầu hết các loại mồi bẫy.

Patriot Pac-3 (Mỹ):

Do hãng Raytheon & locdkheed hợp tác phát triển từ hệ thống Hệ thống dẫn đường TVM (Track-Via-Missile).
Rada:AN/MPQ-53 dùng để tìm kiếm, phát hiện, nhậnb dạng, theo dỡi, hướng dẫn tên lửa và có chức năng là bộ đếm điện tử-thực hiện đánh trả. Rada có tầm họat động 100km, khả năng theo dõi 100mục tiêu, cung cấp dữ liệu hướng dẫn 1 lúc cho 9 tên lửa.
Thân TL dài: 520cm. Đường kính thân 40cm. 4 cánh hình tứ giác, đường kính 85cm, độ cao tối đa 30km.
Trạm điều khiển AN/MSQ-104. Trạm phóng M901 có chức năng vận chuyển, định hướng và phóngTL, Mỗi Trạm phóng M 901 có 4 tên lửa được điều khiển từ xa thông qua sóng VHF hoặc đường truyền dữ liệu cáp quang.

Hệ thống Arrow-2 (Israel):

Rada:



Bán kính tìm kiếm mục tiêu Rada: Tầm 500km.
Tốc độ tiêu diệt mục tiêu:3.000m/s.
Chiều dài tên lửa: 7m.
Đường kính tên lửa: 800mm.
Trọng lượng khi phóng: 1.300kg.
Arrow là hệ thống chống tên lửa đạn đạo chiến thuật của Israel và được vận hành từ năm 2000. Arrow-2 là hệ thống phòng thủ tên lửa nhằm phá huỷ hoặc đánh chặn tên lửa tầm ngắn hoặc tầm trung trên tầng bình lưu. Nó có thể phát hiện tên lửa ở khoảng cách 500km, phóng tên lửa nhanh gấp 9 lần tốc độ âm thanh và đánh chặn tên lửa từ khoảng cách xa 80km.Arrow được thiết kế nhằm phá hỏng đầu đạn tiến vào cách mục tiêu 37-46 mét, và khẩu đội có một hệ thống chỉ huy và kiểm soát nhằm đánh chặn 14 đầu đạn.Tên lửa đánh chặn Arrow 2 đã được thử nghiệm thành công 14 lần.
Đây là FD-2000 (phiên bản xuất khẩu của HQ-9), hàng nhái S-300 của Nga:
Tầm họat động tên lửa: 7-125km.Tầm bay cao tối đa: 27km. Trọng lượng khi phóng: 1.300kg. Chiều dài ên lửa: 6,8m. Đường kính tên lửa: 466mm.Hệ thống dò tìm thụ động. Rada có thể đồng thời theo dõi 48 mục tiêu, hướng dẫn bắn 15 mục tiêu.
FD-2000 là phiên bản xuất khẩu của tổ hợp tên lửa HQ-9. Hệ thống này được cải tiến thực sự sau khi vào năm 1991 Trung Quốc đã mua một vài mẫu tổ hợp S-300PMU của Nga. Trung Quốc cải tiến tên lửa cũng như radar và bệ phóng. FD-2000 của Trung Quốc có khả năng đánh chặn máy bay ở những độ cao khác nhau cũng như đánh chặn tên lửa có cánh và tên lửa đạn đạo. Hiện nay, hệ thống phóng của Trung Quốc là thiết bị dành cho 4 tên lửa phóng theo phương thẳng đứng. Về tầm xa, đến nay tên lửa Trung Quốc vẫn thua tên lửa đã được cải tiến của Nga. FD-2000 đã xuất hiện ở một số cuộc triển lãm gần đây và tham gia dự thầu hệ thống PK tầm xa của Thổ, tuy nhiên đã thất bại. Hiện tại Iran đang ngỏ ý sở hữu hệ thống này, nếu không mua được S-300 PMU của Nga.



Hệ thống rada X-band:


Một số thông số cơ bản của radar X-Band: Dài 390 feet (119 m), rộng 240 feet (73 m), cao 280 feet (85 m) tính từ sống của giàn đỡ lên đến tháp đỉnh của radar, trọng lượng 50.000 tấn, độ ổn định 100. Mỗi hệ thống radar biên chế khoảng 80 nhân viên.
Hệ thống ra-đa X-Band (SBX) là một trong những hệ thống ra đa cảnh báo sớm hiện đại nhất trên thế giới do Mỹ nghiên cứu sản xuất, có thể phát hiện các tên lửa đạn đạo ngay sau khi rời bệ phóng 10 giây. nhằm giúp các tên lửa đánh chặn rút ngắn thời gian khởi động và vạch ra phương án đánh trả kịp thời. Radar X-Band được kết cấu gói gọn trên một giàn bán ngầm cơ động trên biển, radar có thể định vị, kiểm soát bất kỳ khu vực nào trên toàn cầu, cung cấp thông tin cảnh báo trước cho hệ thống phòng thủ tên lửa đạn đạo.
Giàn bán ngầm có chức năng gần như một chiếc tàu biển, được thiết kế dựa trên công nghệ của giàn khoan dầu khí bán ngầm thế hệ thứ 5, được kết cấu bởi 02 thân chính, sử dụng động cơ tự lực, giàn bán ngầm này có tính ổn định cao ít bị tác động trước sức gió và sóng biển lớn.Trên sàn của giàn bán ngầm gồm có khu nhà ở, khu làm việc, kho, máy phát điện, cầu, phòng điều hành, ăng ten và cổng kết nối dữ liệu hệ thống thông tin liên lạc với tên lửa đánh chặn.

Tên lửa đối không SM-3 (Standard Missile-3) của Mỹ:



Phiên bản phóng từ tàu:
Chiểu dài: 6,55m.
Đường kính: 0, 34m.
Tốc độ bay: 9.600km/giờ.
Độ cao tối đa: 160km.
Tầm họat động: Trên 500km.
Máy phóng: 8.

Tên lửa RIM-161 SM-3 được sử dụng phối hợp với các radar cảnh báo sớm và sensor hồng ngoại trong không gian để dò tìm mục tiêu, định hướng, xác định độ cao, bám sát quá trình bay và tiêu diệt các mục tiêu là tên lửa đạn đạo tầm xa hoặc tầm trung mang đầu đạn hóa học, sinh học hoặc hạt nhân. Hiện SM-3 và rada X-band ở trên nằm trong hệ thống phòng thủ chống tên lửa của Mỹ .

Tên lửa SM-3 được thiết kế 04 tầng, hai tầng đầu chứa nhiên liệu đẩy có chức năng đẩy tên lửa đánh chặn ra khỏi tầng khí quyển, tầng 3 đẩy tên lửa xa hơn ngoài tầng khí khuyển trái đất, sử dụng hệ thống định vị vệ tinh (GPS) để điều chỉnh hướng tiếp cận mục tiêu, tầng thứ tư chứa các thiết bị mang và có sử dụng các sensor hồng ngoại nhằm lao thẳng vào mục tiêu.

Pháo phòng không Type 85 23 mm (nhái ZSU-23-2 của Liên Xô):


Là hệ thống pháo cao xạ phòng không 2 nòng 35mm, 2 hộp đạn cơ số 400viên. Pháo được vận chuyển bằng phương tiện kéo và có chân đế, có bộ ngắm, 2 người điều khiển.


Hệ thống pháo phòng không LD-2000 SPAAG-Trung Quốc (hàng nhái Thales-Pháp):


Phiên bản trên bộ (copy từ hệ thống Phalanx trên bộ của Mỹ):


Được đặt trên khung gầm xe Wanshan WS-2400 8x8, cỡ nòng 30mm, có khả năng tiêu diệt máy bay trong bán kính 4.000m và tên lửa ở khỏang cách 1.700m với 2 ổ đạn 500 viên. Rada thụ động Ku-Band phát hiện theo dõi và hướng dẫn tiêu diệt mục tiêu. Trước đây, hệ thống này chủ yếu trang bị để bảo vệ các tàu chiến của HQ Khựa. Phiên bản mới được Khựa đặt trên xe tải, được gắn thêm 6 tên lửa đối không:


Hàng Thales:




Hệ thống tên lửa phòng không HQ-7/FM90 (hàng nhái Crotale Sam của hãng Thales-Pháp):


Tiếp:



Phiên bản trên tàu chiến:


+ Tầm phát hiện và bám mục tiêu của rada: 20km.
+ Tầm họat động hiệu quả: Độ cao từ 0,7km-7km. Tầm xa: 0,7km-11km.
+ Phản ứng đánh trả mục tiêu: dưới 10 giây.
+ Tốc độ bay: 930m/s.

Hệ thống HQ-7/FM90 được đặt trên khung gầm xe 4x4 hoặc 6x6. Một khẩu đội có 2 rada, 1 rada được thiết kế hình chảo gắn liền với tên lửa trên tháp xe, và 1 rada rời hình phẳng.
Về Đầu Trang
Về Đầu Trang

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét