Đây là trang nhật ký cá nhân trên mạng của tôi, không muốn mọi người góp ý, bình luận,... xin cảm ơn!
Thứ Năm, 30 tháng 6, 2011
CÔNG NGHỆ QUÂN SỰ
Hiện đại, chính xác, tính sát thương cao, khả năng tấn công trên diện rộng, song cũng khó xác định hơn… đó là các tiêu chuẩn được rượt đuổi bởi bất kỳ một sản phẩm ra lò nào có tên “vũ khí công nghệ cao”. Rộng hơn, đó là đích nhắm của lĩnh vực công nghệ quân sự, lĩnh vực vốn trước đây được coi là “tối mật”, nhằm mục tiêu phòng vệ an ninh hay tham vọng sử dụng bạo lực chiến tranh của bất kỳ quốc gia nào. Tuy nhiên, công nghệ quân sự thế kỷ XXI đã “mở” hơn, kèm theo nó là sự đua tranh khốc liệt hơn.
Trước tiên cần nói rằng, công nghệ quân sự dù đã manh nha từ rất lâu nhưng chỉ chừng một thập kỷ trở lại đây, nó mới thực sự trở thành một lĩnh vực có tốc độ phát triển vượt bậc. Cuộc cách mạng khoa học-công nghệ tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật và công nghệ cho một nền kinh tế phát triển cao hơn hẳn nền kinh tế công nghiệp trong thế kỷ XX, thay đổi căn bản diện mạo sản xuất và đời sống đương đại, trong đó có lĩnh vực công nghệ quân sự.
Từ vũ khí công nghệ đến chiến tranh công nghệ
Công nghệ cao được ứng dụng trong quân sự đã tạo nên thế hệ vũ khí hoàn toàn mới, với đặc điểm quan trọng và nổi bật nhất là có tính lưỡng dụng, nghĩa là vừa có để sản xuất ra hàng hoá dân dụng, vừa chế tạo ra các phương tiện chiến tranh, vì thế nên nó còn được gọi là công nghệ cao lưỡng dụng. Trong thế kỷ XXI, công nghệ quốc phòng chủ yếu sẽ là công nghệ cao lưỡng dụng và chiến tranh sẽ được tiến hành bằng vũ khí công nghệ cao, hay còn gọi là chiến tranh công nghệ cao (High-Technology War).
Đa số các chuyên gia quân sự đều nhất trí nhận định rằng cuộc chiến tranh Vùng Vịnh do Mỹ và liên quân phát động (1990-1991) là nơi thử nghiệm đầu tiên loại hình chiến tranh công nghệ cao, mà ở đó vũ khí có thể chỉ đơn giản là một loại virus máy tính. Việc ứng dụng rộng rãi công nghệ và kỹ thuật cao của quân đội tham chiến trong cuộc chiến này được cho là những thử nghiệm cơ bản hình thành chiến tranh công nghệ. Kết quả của nó là sau 42 ngày đêm chiến đấu, quân đội Iraq hứng chịu số thương vong lên tới vài trăm ngàn người, trong khi của quân đội đồng minh chỉ 126 người. Kỳ tích này chính là do sự vận dụng công nghệ kỹ thuật cao, trong đó có việc quân đồng minh dùng công nghệ phá huỷ toàn bộ hệ thống chỉ huy thông tin của Iraq.
Theo tiết lộ của báo chí Anh sau này, trước khi chiến tranh bùng nổ, Iraq đã đặt mua của Pháp một lô máy in hiện đại để dùng trong hệ thống quốc phòng, chuẩn bị vận chuyển vào Baghdad qua thủ đô Amma của Jordan. Nắm được thông tin, các nhân viên đặc nhiệm của Mỹ tại Amma đã bí mật cài virus vào số máy in này, từ đó thông qua máy in xâm nhập vào máy chủ của hệ thống chỉ huy quân sự. Loại virus này mang tên AF91, là do Cục An toàn quốc gia của Mỹ viết ra. Khi Mỹ cầm đầu quân đồng minh phát động chiến dịch “Bão táp sa mạc” tấn công vào Iraq, Mỹ đã dùng thiết bị điều khiển từ xa kích hoạt số virus đó khiến cho hệ thống phòng không của Iraq bị tê liệt hoàn toàn.
Trong khi đó, những cuộc tấn công của liên quân trong cuộc chiến này lại được chỉ huy bởi hệ thống máy tính có công nghệ tiên tiến nhất, với hệ thống khoảng 60 vệ tinh, nhiều máy bay do thám, trinh sát điện tử làm “tai, mắt”, các loại tên lửa có thiết bị dẫn đường thông minh tiến hành cuộc tấn công “điểm huyệt”, mở đường cho máy bay Mỹ không kích Iraq. Thống kê sau chiến dịch “Bão táp sa mạc” cho thấy, riêng số máy tính dùng để liên lạc về Mỹ có tới 3.000 chiếc. Về thực chất, đây là cuộc chiến tranh công nghệ cao nhưng mới chỉ dừng ở cấp độ thông tin, biến thông tin thành ưu thế trên chiến trường. Có ý kiến cho rằng, một cuộc chiến tranh công nghệ - thông tin trong tương lai sẽ có thể có số binh sĩ mang máy tính nhiều hơn số binh sĩ mang súng đạn.
Trong các cuộc chiến tranh tiếp sau đó ở Kosovo (1999), Afghanisstan (2001) và Iraq (2003), chiến tranh công nghệ cao đã được phát triển lên những nấc thang mới. Nhiều chuyên gia quân sự đã tính tới khả năng chế tạo thế hệ vũ khí công nghệ cao có tầm tiến công xuyên lục địa để tiến hành chiến tranh từ xa trên phạm vi toàn cầu. Giữa các nước lớn, đang diễn ra cuộc chạy đua và cạnh tranh, thậm chí “ăn cắp công nghệ” vô cùng quyết liệt để tranh giành thị trường công nghệ cao. Đáng chú ý là mới đây, trong tuyên bố khung về Hiệp ước hạn chế vũ khí tiến công chiến lược (START) mới giữa Mỹ và Nga, hai bên đã nhất trí đưa vũ khí trang bị công nghệ cao vào danh mục các vũ khí có tác dụng tạo nên sự cân bằng chiến lược quân sự.
Trước tiên cần nói rằng, công nghệ quân sự dù đã manh nha từ rất lâu nhưng chỉ chừng một thập kỷ trở lại đây, nó mới thực sự trở thành một lĩnh vực có tốc độ phát triển vượt bậc. Cuộc cách mạng khoa học-công nghệ tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật và công nghệ cho một nền kinh tế phát triển cao hơn hẳn nền kinh tế công nghiệp trong thế kỷ XX, thay đổi căn bản diện mạo sản xuất và đời sống đương đại, trong đó có lĩnh vực công nghệ quân sự.
Từ vũ khí công nghệ đến chiến tranh công nghệ
Công nghệ cao được ứng dụng trong quân sự đã tạo nên thế hệ vũ khí hoàn toàn mới, với đặc điểm quan trọng và nổi bật nhất là có tính lưỡng dụng, nghĩa là vừa có để sản xuất ra hàng hoá dân dụng, vừa chế tạo ra các phương tiện chiến tranh, vì thế nên nó còn được gọi là công nghệ cao lưỡng dụng. Trong thế kỷ XXI, công nghệ quốc phòng chủ yếu sẽ là công nghệ cao lưỡng dụng và chiến tranh sẽ được tiến hành bằng vũ khí công nghệ cao, hay còn gọi là chiến tranh công nghệ cao (High-Technology War).
Đa số các chuyên gia quân sự đều nhất trí nhận định rằng cuộc chiến tranh Vùng Vịnh do Mỹ và liên quân phát động (1990-1991) là nơi thử nghiệm đầu tiên loại hình chiến tranh công nghệ cao, mà ở đó vũ khí có thể chỉ đơn giản là một loại virus máy tính. Việc ứng dụng rộng rãi công nghệ và kỹ thuật cao của quân đội tham chiến trong cuộc chiến này được cho là những thử nghiệm cơ bản hình thành chiến tranh công nghệ. Kết quả của nó là sau 42 ngày đêm chiến đấu, quân đội Iraq hứng chịu số thương vong lên tới vài trăm ngàn người, trong khi của quân đội đồng minh chỉ 126 người. Kỳ tích này chính là do sự vận dụng công nghệ kỹ thuật cao, trong đó có việc quân đồng minh dùng công nghệ phá huỷ toàn bộ hệ thống chỉ huy thông tin của Iraq.
Theo tiết lộ của báo chí Anh sau này, trước khi chiến tranh bùng nổ, Iraq đã đặt mua của Pháp một lô máy in hiện đại để dùng trong hệ thống quốc phòng, chuẩn bị vận chuyển vào Baghdad qua thủ đô Amma của Jordan. Nắm được thông tin, các nhân viên đặc nhiệm của Mỹ tại Amma đã bí mật cài virus vào số máy in này, từ đó thông qua máy in xâm nhập vào máy chủ của hệ thống chỉ huy quân sự. Loại virus này mang tên AF91, là do Cục An toàn quốc gia của Mỹ viết ra. Khi Mỹ cầm đầu quân đồng minh phát động chiến dịch “Bão táp sa mạc” tấn công vào Iraq, Mỹ đã dùng thiết bị điều khiển từ xa kích hoạt số virus đó khiến cho hệ thống phòng không của Iraq bị tê liệt hoàn toàn.
Trong khi đó, những cuộc tấn công của liên quân trong cuộc chiến này lại được chỉ huy bởi hệ thống máy tính có công nghệ tiên tiến nhất, với hệ thống khoảng 60 vệ tinh, nhiều máy bay do thám, trinh sát điện tử làm “tai, mắt”, các loại tên lửa có thiết bị dẫn đường thông minh tiến hành cuộc tấn công “điểm huyệt”, mở đường cho máy bay Mỹ không kích Iraq. Thống kê sau chiến dịch “Bão táp sa mạc” cho thấy, riêng số máy tính dùng để liên lạc về Mỹ có tới 3.000 chiếc. Về thực chất, đây là cuộc chiến tranh công nghệ cao nhưng mới chỉ dừng ở cấp độ thông tin, biến thông tin thành ưu thế trên chiến trường. Có ý kiến cho rằng, một cuộc chiến tranh công nghệ - thông tin trong tương lai sẽ có thể có số binh sĩ mang máy tính nhiều hơn số binh sĩ mang súng đạn.
Trong các cuộc chiến tranh tiếp sau đó ở Kosovo (1999), Afghanisstan (2001) và Iraq (2003), chiến tranh công nghệ cao đã được phát triển lên những nấc thang mới. Nhiều chuyên gia quân sự đã tính tới khả năng chế tạo thế hệ vũ khí công nghệ cao có tầm tiến công xuyên lục địa để tiến hành chiến tranh từ xa trên phạm vi toàn cầu. Giữa các nước lớn, đang diễn ra cuộc chạy đua và cạnh tranh, thậm chí “ăn cắp công nghệ” vô cùng quyết liệt để tranh giành thị trường công nghệ cao. Đáng chú ý là mới đây, trong tuyên bố khung về Hiệp ước hạn chế vũ khí tiến công chiến lược (START) mới giữa Mỹ và Nga, hai bên đã nhất trí đưa vũ khí trang bị công nghệ cao vào danh mục các vũ khí có tác dụng tạo nên sự cân bằng chiến lược quân sự.
Hệ thống điều khiển và chỉ huy thông tin DICOM
Đặc điểm:
- Liên kết thông tin HF, VHF, UHF, điện thoại di động, điện thoại cố định, điện thoại vệ tinh, ..
- Công nghệ chuyển mạch IP và được thiết kế từ các thiết bị, module giống nhau với kích thước nhỏ chắc chắn đảm bảo đáp ứng các môi trường làm việc.
- Cấu hình dự phòng đảm bảo độ tin cậy cao cho toàn bộ hệ thống, khi một thiết bị hỏng sẽ không ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thống.
- Có thể mở rộng cấu hình theo yêu cầu.
- Nhiều vị trí điều hành cho phép thực hiện nhiều thao tác trong cùng một thời điểm.
Cấu hình ứng dụng:
- Cơ động.
- Tác chiến.
- Trung tâm chỉ huy
Thứ Tư, 29 tháng 6, 2011
Xu hướng phát triển trinh sát và CH-ĐK của Mỹ
Phát triển hệ thống trinh sát, giám sát, giành và giữ vững ưu thế thông tin trên chiến trường
Tập trung phát triển hệ thống trinh sát vệ tinh hình ảnh, vệ tinh của USAF sẽ phát triển theo hướng tiểu hình hóa, ứng dụng kỹ thật đa tần và siêu cao tần, có thể thám sát được mục tiêu di động trên mặt đất.
Vệ tinh hình ảnh thế hệ thứ 6 là vệ tinh hình ảnh radar Lacrosse, trên vệ tinh có lắp radar khẩu độ tổng hợp SAR có độ phân giải 0,3-1 m, có thể trinh sát trong mọi điều kiện thời tiết, cả ngày lẫn đêm.
Để thích ứng với nhu cầu của cuộc chiến chống khủng bố, xu thế phát triển trong tương lai của vệ tinh USAF là:
Phát triển vệ tinh radar vũ trụ nhằm phát hiện và theo dõi mục tiêu di động trên mặt đất có tốc độ 4-100 km/h, trong phạm vi toàn cầu, cả ngày lẫn đêm.
USAF có kế hoạch đầu tư 4 tỷ USD để phát triển loại vệ tinh này, đến năm 2021 bố trí các radar vũ trụ cải tiến, cuối cùng bố trí 8-12 vệ tinh này trên vũ trụ, để giám sát toàn cầu.
Phát triển vệ tinh trinh sát hình ảnh đa tần và siêu cao tần chủ yếu dùng để thám sát mục tiêu được ngụy trang, trên mặt đất, bao gồm vũ khí sát thương hàng loạt (vũ khí hạt nhân, sinh học, và hóa học).
USAF cho biết, trong 5 năm tới sẽ nghiên cứu chế tạo thành công vệ tinh trinh sát đa tần và trong 10 năm tới sẽ nghiên cứu chế tạo thành công vệ tinh trinh sát siêu cao tần, kế hoạch đến trước năm 2024 bố trí vệ tinh giám sát siêu cao tần.
Phát triển “vệ tinh công nghệ thế kỷ 21”: USAF cho biết loại vệ tinh này là “vệ tinh mini” hoặc “vệ tinh ảo”. Trên mỗi vệ tinh được lắp một máy thu kép ổn định hình ảnh, không những có thể thu được tín hiệu phản hồi do nó tự phát ra mà còn có thể thu được tín hiệu từ các vệ tinh mini khác, để có được độ phân giải cao.
Tăng cường năng lực thông tin liên lạc, chỉ huy, kiểm soát, cải thiện năng lực tiến công tức thời
Năng lực thông tin liên lạc chỉ huy kiểm soát mạnh hay yếu quyết định trực tiếp đến năng lực tiến công tức thời. Để nâng cao hơn năng lực này, USAF sẽ chú trọng tăng cường xây dựng năng lực thông tin liên lạc, chỉ huy, kiểm soát.
Cải tạo đường link dữ liệu L-16 cho tất cả các máy bay chiến đấu chủ yếu: Đường truyền dữ liệu L-16 là thiết bị quan trọng thực hiện kết nối giữa các nguồn thông tin, trung tâm chỉ huy, kiểm soát, máy bay và tên lửa, là phương thức quan trọng để cải thiện năng lực tiến công tức thì. Để nâng cao năng lực này trong tương lai, Mỹ sẽ mở rộng hơn nữa phạm vi sử dụng đường truyền dữ liệu này.
Phát triển “máy bay chỉ huy kiểm soát có nhiều thiết bị cảm biến” E-10: Loại máy bay này sẽ trở thành máy bay chỉ huy kiểm soát thế hệ sau, tích hợp được tính năng của các máy bay chỉ huy cảnh báo sớm E-3, JSTAR E-8 và máy bay trinh sát điện tử RC-135.
Theo ý tưởng của USAF, ngoài những tính năng trên, E-10 còn có khả năng chỉ huy, kiểm soát máy bay không người lái, phối hợp với radar trên vũ trụ và hệ thống tình báo, trinh sát giám sát.
Phát triển vệ tinh dẫn đường thế hệ mới: USAF đang phát triển vệ tinh dẫn đường kiểu GPS III có tính năng ưu việt hơn là Pathfinder, có khả năng chống nhiễu cao gấp 100 lần, dự kiến đến năm 2014 sẽ vào sử dụng.
Tập trung phát triển hệ thống trinh sát vệ tinh hình ảnh, vệ tinh của USAF sẽ phát triển theo hướng tiểu hình hóa, ứng dụng kỹ thật đa tần và siêu cao tần, có thể thám sát được mục tiêu di động trên mặt đất.
Vệ tinh hình ảnh thế hệ thứ 6 là vệ tinh hình ảnh radar Lacrosse, trên vệ tinh có lắp radar khẩu độ tổng hợp SAR có độ phân giải 0,3-1 m, có thể trinh sát trong mọi điều kiện thời tiết, cả ngày lẫn đêm.
Bản thiết kế Radar Lacrosse. |
Để thích ứng với nhu cầu của cuộc chiến chống khủng bố, xu thế phát triển trong tương lai của vệ tinh USAF là:
Phát triển vệ tinh radar vũ trụ nhằm phát hiện và theo dõi mục tiêu di động trên mặt đất có tốc độ 4-100 km/h, trong phạm vi toàn cầu, cả ngày lẫn đêm.
USAF có kế hoạch đầu tư 4 tỷ USD để phát triển loại vệ tinh này, đến năm 2021 bố trí các radar vũ trụ cải tiến, cuối cùng bố trí 8-12 vệ tinh này trên vũ trụ, để giám sát toàn cầu.
Phát triển vệ tinh trinh sát hình ảnh đa tần và siêu cao tần chủ yếu dùng để thám sát mục tiêu được ngụy trang, trên mặt đất, bao gồm vũ khí sát thương hàng loạt (vũ khí hạt nhân, sinh học, và hóa học).
USAF cho biết, trong 5 năm tới sẽ nghiên cứu chế tạo thành công vệ tinh trinh sát đa tần và trong 10 năm tới sẽ nghiên cứu chế tạo thành công vệ tinh trinh sát siêu cao tần, kế hoạch đến trước năm 2024 bố trí vệ tinh giám sát siêu cao tần.
Phát triển “vệ tinh công nghệ thế kỷ 21”: USAF cho biết loại vệ tinh này là “vệ tinh mini” hoặc “vệ tinh ảo”. Trên mỗi vệ tinh được lắp một máy thu kép ổn định hình ảnh, không những có thể thu được tín hiệu phản hồi do nó tự phát ra mà còn có thể thu được tín hiệu từ các vệ tinh mini khác, để có được độ phân giải cao.
Tăng cường năng lực thông tin liên lạc, chỉ huy, kiểm soát, cải thiện năng lực tiến công tức thời
Năng lực thông tin liên lạc chỉ huy kiểm soát mạnh hay yếu quyết định trực tiếp đến năng lực tiến công tức thời. Để nâng cao hơn năng lực này, USAF sẽ chú trọng tăng cường xây dựng năng lực thông tin liên lạc, chỉ huy, kiểm soát.
Cải tạo đường link dữ liệu L-16 cho tất cả các máy bay chiến đấu chủ yếu: Đường truyền dữ liệu L-16 là thiết bị quan trọng thực hiện kết nối giữa các nguồn thông tin, trung tâm chỉ huy, kiểm soát, máy bay và tên lửa, là phương thức quan trọng để cải thiện năng lực tiến công tức thì. Để nâng cao năng lực này trong tương lai, Mỹ sẽ mở rộng hơn nữa phạm vi sử dụng đường truyền dữ liệu này.
Máy bay trinh sát điện tử RC-135. |
Bên trong máy bay RC-135. |
Phát triển “máy bay chỉ huy kiểm soát có nhiều thiết bị cảm biến” E-10: Loại máy bay này sẽ trở thành máy bay chỉ huy kiểm soát thế hệ sau, tích hợp được tính năng của các máy bay chỉ huy cảnh báo sớm E-3, JSTAR E-8 và máy bay trinh sát điện tử RC-135.
Theo ý tưởng của USAF, ngoài những tính năng trên, E-10 còn có khả năng chỉ huy, kiểm soát máy bay không người lái, phối hợp với radar trên vũ trụ và hệ thống tình báo, trinh sát giám sát.
Phát triển vệ tinh dẫn đường thế hệ mới: USAF đang phát triển vệ tinh dẫn đường kiểu GPS III có tính năng ưu việt hơn là Pathfinder, có khả năng chống nhiễu cao gấp 100 lần, dự kiến đến năm 2014 sẽ vào sử dụng.
My Wesite, Blog's
- Cục An ninh Quốc gia NSA Hoa Kỳ
- Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ
- Học viện quân sự Hoa Kỳ
- Học viện hải quân Hoa Kỳ
- Học viện Không Quân Hoa Kỳ
- Quân sự Hoa Kỳ
- Quân sự Mỹ 2
- Khối NATO
- Cơ quan An ninh Liên bang Nga FSB
- Bộ Quốc phòng Liên bang Nga
- Thông tin Quân sự Nga
- Công nghiệp quốc phòng Mỹ
- WikiLeaks
- Trang thông tin về Quân sự của Trung Quốc
- Thời báo Hoàn cầu (TQ)
- Quân đội Pakistan
- Phương tiên cơ động Q.Sự video
- Quân đội Anh chiến thuật chỉ huy và hệ thống điều khiển
- Chiến đấu trong kỹ thuật số hoặc analog?
- C4ISR
- Hệ thống tư vấn AN nội địa IWS
- Quân sự toàn cầu
- Chỉ huy và điều khiển tích hợp
- Liên kết dữ liệu toàn cầu
- Cập nhật thông tin mới về C4ISR
- Hệ thống Quốc phòng
- Cơ sở hệ thống C4ISR
- Tin mới về Quân sự
- Quân sự UPI
- Quân sự ASDNews
- VietNamDefence
- VietNam Defence
- Quân đội ND
- Báo Trung quốc http://www.chinadaily.com.cn/
- News China
- Tin tức Viettel
- Tin tức Vinaphone
- Xem IP
- Kiểm tra IP của ai
- Xem ngày tốt xấu
- Ngũ hành, âm dương
- Xem bản mệnh theo tuổi
- Xem tuổi lấy vợ
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)